click here to find out more http://www.pornsocket.cc
sexyvideoshd.net
www.anybunnyvideos.com runaway girls.

Trò chơi vương quyền – Lịch sử cổ xưa

Do tính chất bài viết khá dài, các bạn có thể sử dụng nút Mục lục để di chuyển đến phần cần đọc. Phần Mục lục sẽ luôn thu nhỏ phía bên dưới góc trái màn hình.

1. Mở đầu

Có một sự thật rằng những công trình đều được xây nên bởi từng viên đá xếp chồng lên nhau, và kiến thức cũng vậy, nó được trích xuất và biên soạn bởi những người có tri thức, từng người sẽ xây dựng nên kiến thức dựa vào những kiến thức đã được xây dựng từ những người đi trước. Những gì trong số đó không được biết bởi một người khác, và những điều không được biết đến đó sẽ thu hẹp lại nếu một ai đó tìm kiếm đủ xa. Giờ đây, tôi, Maester Yandel, đến lượt tôi trở thành một thợ xây, chạm khắc nên những gì tôi biết để đặt thêm một viên đá vào kho tàng kiến thức vĩ đại đã được xây dựng qua nhiều thế kỷ, kể cả có và chưa có ở Citadel – một nơi được xây dựng bởi vô số những bàn tay xuất hiện trước đó, và sẽ tiếp tục, mà không một chút mảy may nghi ngờ nào, để vươn lên với sự trợ giúp của vô số bàn tay vẫn chưa chạm tới nơi đây.

Tôi là một đứa trẻ bị bỏ rơi từ khi mới sinh ra vào năm thứ mười dưới triều đại của vị vua Targaryen cuối cùng, lúc đó tôi bị bỏ lại vào một buổi sáng trong một quầy hàng trống ở Scribe’s Hearth, nơi những thầy tu (acolytes) thực hiện những kiểu chữ nghệ thuật cho những ai có nhu cầu. Khóa học của cuộc đời tôi bắt đầu từ ngày đó, khi tôi được tìm thấy bởi một thầy tu, người đã dẫn tôi tới Seneschal vào năm đó, vào gặp được Archmaester Edgerran. Nhẫn, cây gậy và mặt nạ của Edgerran được làm bằng bạc, khi ông quan sát khuôn mặt đang quấy khóc của tôi và nói với tôi rằng tôi có thể là một người hữu dụng. Lần đầu được kể lại điều đó khi tôi đã là một cậu bé, lúc đó tôi nghĩ rằng ông ấy đã thấy được tương lai về số phận của tôi sẽ trở thành một học giả; chỉ là sau này khá lâu, tôi đã biết được từ Archmaester Ebrose rằng Edgerran đang viết một nghiên cứu về việc quấn tã cho trẻ sơ sinh và mong muốn được thử nghiệm những lý thuyết của mình.

Nhưng điều không may luôn xảy đến như nó vẫn hay thế, kết quả là tôi được giao nhiệm vụ chăm sóc những người hầu cận và thỉnh thoảng nhận được sự chú ý của những học giả. Tôi được nuôi lớn như là một người hầu cận bên trong những hành lang, những căn phòng và những thư viện, nhưng tôi đã nhận được món quà là những con chữ do Archmaester Walgrave dạy tôi. Vì thế tôi đã biết đọc và yêu thích Citadel cũng như những hiệp sĩ của trí tuệ (the knights of the mind) là những người bảo vệ sự thông thái quý giá của kiến thức. Tôi không có khao khát gì hơn là trở thành một trong số họ – để đọc về những vùng đất xa xôi và những con người đã chết từ rất lâu, để ngắm nghía những vì tinh tú và đo lường sự qua đi của các mùa trong năm.

Và tôi đã làm được. Tôi đã rèn được mắt xích đầu tiên trong sợi xích của tôi khi tôi mười ba tuổi, và những mắc xích khác đi theo sau đó. Tôi đã hoàn thành sợi xích của tôi và giữ những lời thề của mình trong chín năm dưới triều đại của Vua Robert, Đệ Nhất, và tự mình nhận thấy niềm yêu thích để tiếp tục ở Citadel, để phục vụ cho những học giả chuyên sâu (archmaesters) và hỗ trợ tất cả những công việc mà họ làm. Đó là một vinh dự to lớn, nhưng niềm khao khát lớn nhất của tôi là tạo ra một công việc của chính tôi, một công việc khiêm tốn cho những ai biết đọc – và đọc cho vợ và con của họ nghe – để họ sẽ học được cả những điều tốt đẹp và điều xấu xa, sự công bằng và điều bất công, những thứ lớn lao và những điều nhỏ bé, và phát triển sự hiểu biết của mình như tôi đã làm được khi học tập ở Citadel. Và vì vậy, tôi đã tự mình thực hiện công việc một lần nữa tại nơi tôi đã rèn giũa mình, để tạo ra những vấn đề mới và đáng chú ý xung quanh những kiệt tác từ những học giả đã khuất từ xa xưa, những người đã đến đây trước tôi. Những gì diễn ra tiếp theo đây xuất phát từ mong muốn đó: một lịch sử về những hành động dũng cảm và tàn ác, những tộc người quen thuộc và kỳ lạ, rồi cả những vùng đất gần gũi và xa xôi.

2. Thời kì bình minh

Không một ai có thể chắc chắn rằng thế giới đã bắt đầu từ lúc nào, nhưng điều bí ẩn này vẫn không ngăn cản những học giả và những người có kiến thức tìm kiếm câu trả lời. Có phải thế giới bắt đầu từ cách đây bốn mươi ngàn năm, như một vài người tin tưởng hoặc có lẽ một con số lớn hơn cỡ năm trăm ngàn năm – hay thậm chí là hơn thế? Nó không được viết trong bất kỳ cuốn sách nào mà chúng ta biết, trong thời kỳ đầu tiên của thế giới, Thời kỳ Bình Minh, thời mà con người còn chưa biết đến chữ viết là gì.

Tuy nhiên chúng ta có thể chắc chắn rằng thế giới đã xuất hiện xa hơn cả thời kỳ nguyên thủy, cái thời mà xuất hiện những bộ tộc sinh sống trên những vùng đất kinh hoàng, không có kiến thức gì về kim loại hay thuần hóa những con quái thú. Những gì ít ỏi mà chúng ta được biết về những ngày đó được lưu giữ trong những ký tự cổ xưa nhất: những câu chuyện được viết bởi người Andals, bởi những người Valyrian, bởi người Ghiscari và thậm chí bởi những người ở vùng đất Asshai xa xôi bí ẩn. Thế nhưng dù cho những mẫu ký tự đó có cổ xưa đến thế nào, thì những người viết nên nó thậm chí còn không phải là những đứa trẻ sinh sống trong suốt Thời kỳ Bình Minh. Vì thế những câu chuyện kể của họ rất khó để tìm hiểu được đúng hay sai, như thể mò kim đáy bể.

Những điều có thể được kể lại một cách chính xác về Thời kỳ Bình Minh là gì? Những vùng đất ở phía đông tràn ngập những cư dân chưa được khai hóa, như bất cứ nơi nào trên thế giới nhưng số lượng nhiều hơn. Nhưng ở Westeros, từ Vùng đất của Mùa đông vĩnh cữu cho tới những bờ biển vùng Biển Mùa hè, chỉ có hai loại cư dân tồn tại: những đứa con của rừng rậm và những sinh vật được biết đến với tên gọi những người khổng lồ.Về những người khổng lồ ở Thời kỳ Bình Minh, thì những gì nói về họ lại vô cùng ít ỏi, không một ai thu thập những câu chuyện về họ, những truyền thuyết và lịch sử của họ. Men of the Watch nói những người man tộc có những câu chuyện rằng, những người khổng lồ gây rắc rối khi sống bên cạnh những đứa con của rừng rậm, bọn họ muốn đi đâu thì đi và chiếm lấy những gì họ muốn. Tất cả những tài liệu và câu chuyện kể đều xác nhận rằng họ là những tạo vật cực kỳ to lớn và mạnh mẽ, nhưng lại đơn giản. Những nguồn đáng tin cậy từ lính biệt kích trong Đội tuần đêm, là những người cuối cùng nhìn thấy những người khổng lồ lúc họ vẫn còn sống, mô tả rằng cơ thể những người khổng lồ được bao phủ bởi một lớp lông dày chứ không phải chỉ đơn giản mang hình thù to lớn như những câu chuyển kể cho trẻ con nghe.

Có một bằng chứng có thể xem xét về việc chôn cất những người khổng lồ, được ghi lại trong Passages of the Dead của Maester Kennet – một nghiên cứu về những nghĩa địa, những nấm mồ và những lăng mộ ở phương Bắc trong thời gian ông phục vụ ở Winterfell, trong suốt thời kỳ trị vị rất dài của Cregan Stark. Từ những mảnh xương được tìm thấy ở phương Bắc và được gửi đến Citadel, một vài học giả đã ước tính rằng những người khổng lồ có kích cỡ lớn nhất đạt đến 14 feet, mặc dù một số học giả khác lại cho rằng 12 feet sẽ gần với thực tế hơn. Những câu chuyện của những người lính canh của Đội tuần đêm đã chết từ lâu, được viết lại bởi những học giả của the Watch, đều thống nhất rằng những người khổng lồ không dựng chỗ ở hoặc làm ra y phục, và cũng không có những dụng cụ hoặc vũ khí nào thích hợp hơn những nhánh cây được bẻ xuống từ những thân cây lớn.

Những tài liệu lưu trữ tại Citadel có một bức thư từ Maester Aemon, được gửi đến vào những năm đầu dưới triều đại Aegon V, tường trình về một báo cáo từ một thành viên đội lính canh tên là Redwyn, được viết trong những ngày Vua Dorren Stark còn trị vì. Nó kể lại một chuyến đi đến Lorn Point và Frozen Shore, và trong đó cũng xác nhận việc người lính canh này và đội của anh ta đã chiến đấu với những người khổng lồ và giao thương với những đứa con của rừng rậm. Bức thư của Aemon xác nhận rằng ông ấy đã tìm thấy nhiều những báo cáo về những khám phá của Redwyn trong những tài liệu lưu trữ tại the Watch ở Castle Black, và cho rằng những báo cáo đó có thể đáng tin cậy.

Những người khổng lồ không có vua và lãnh chúa, không dựng nơi ở trong những hang động hoặc bên dưới những cái cây cao, và họ cũng không sử dụng kim loại hoặc trồng trọt. Họ vẫn là những sinh vật của Kỷ nguyên Bình Minh ngay cả khi thời kỳ này đã qua từ lâu, số lượng con người ngày một tăng lên và những khu rừng thì bị khai hoang và thu hẹp. Giờ đây những người khổng lồ đã biến mất thậm chí ở những vùng đất đằng sau the Wall, và những báo cáo cuối cùng về họ cũng đã cách đây hơn một trăm tuổi. Và giờ những câu chuyện về họ cũng chỉ là những câu chuyện mơ hồ mà những người lính canh của the Watch kể với nhau khi ngồi xung quanh đống lửa ấm áp.

Những đứa con của rừng rậm, theo nhiều khía cạnh, lại trái ngược với những người khổng lồ. Bọn họ nhỏ nhắn như những đứa trẻ con nhưng đen tối và xinh đẹp, lối cư xử của họ theo kiểu mà ngày nay chúng ta có lẽ gọi là thô lỗ và cộc cằn, thế nhưng bọn họ vẫn được xem là ít tàn ác hơn những người khổng lồ. Họ không sử dụng kim loại, nhưng họ có kỹ năng nghệ thuật tuyệt vời khi sử dụng đá vỏ chai (những gì mà những người bình thường gọi là kính rồng, trong khi những người Valyrian hiểu nó theo một từ có nghĩa là “ngọn lửa bị đóng băng”) để tạo ra những công cụ và vũ khí để đi săn.Bọn họ không tạo ra vải để mặc lên người nhưng có kỹ năng tạo ra trang phục cho mình bằng lá và vỏ cây. Họ học cách làm ra những cây cung từ thân cây weirwood cũng như đan những tấm lưới bằng cỏ để ném vào con mồi, và cả hai giới đực và cái đều đi săn theo những cách này.Bài hát và âm nhạc của họ được kể rằng cũng tuyệt đẹp như họ vậy, nhưng những gì họ hát thì không được ghi nhớ để giữ lại và lưu truyền cho đời sau từ những ngày xa xưa. Những quyển sách như Winter’s Kings hay the Legends and Lineages of the Starks of Winterfell của Maester Childer bao gồm một phần trong đó là một bản nhạc du dương kể về khoảng thời gian mà Brandon the Builder tìm kiếm sự trợ giúp từ những đứa con của rừng rậm khi ông ấy dựng lên the Wall. Ông ấy được dẫn tới một nơi bí mật để gặp gỡ họ, nhưng lần gặp gỡ đầu tiên này ông không thể hiểu được những lời nói của họ, những lời nói được mô tả như âm thanh của những viên đá trong lòng một con suối nhỏ hay như cơn gió khẽ lướt qua từng chiếc lá hoặc có thể là cơn mưa chạm nhẹ vào mặt nước. Cách mà Brandon học để hiểu được những gì Những đứa trẻ nói có một câu chuyện của chính nó, và không cần thiết để lặp lại ở đây. Nhưng dường như rõ ràng là những lời nói của họ bắt nguồn, hoặc lấy cảm hứng từ những âm thanh mà họ đã nghe được hàng ngày.

Những vị thần mà Những đứa con thờ phụng là những vị thần không có tên, và rồi một ngày nào đó những vị thần này sẽ trở thành những vị thần của Tiền Nhân – rất nhiều những vị thần của những con suối, của rừng rậm và của đá. Những đứa con đã khắc lên những thân cây weirwood những khuôn mặt, có lẽ để tạo nên những đôi mắt cho những vị thần của họ, để những vị thần có thể theo dõi được khi ai đó đang thờ phụng họ với sự tôn kính.

Một số người khác, với ít bằng chứng hơn, xác nhận rằng những Lục tiên nhân (greenseer) – những đứa con thông thái của Những đứa con – có thể nhìn thấy thông qua những đôi mắt được chạm khắc trên những thân cây weirwood. Bằng chứng được đưa ra là, chính Tiền Nhân cũng tin vào điều này; về nỗi sợ của họ khi mường tượng rằng những thân cây weirwood đang dõi theo họ từ trên cao và điều đó thôi thúc họ chặt bỏ rất nhiều những cây gỗ được chạm khắc và những bụi cây weirwood lùm xùm, để ngăn Những đứa con có lợi thế. Thế nhưng Tiền Nhân ít hiểu biết hơn chúng ta bây giờ và có những thứ chứng minh rằng những hậu duệ của họ ngày nay thì không như thế; xem xét những gì được viết trong Wed to the Sea, Being an Account of the History of White Harbor from Its Earliest Days của Maester Yorrick, mà ông có kể lại về những buổi thực hành hiến tế bằng máu đến những cựu thần. Những buổi hiến tế như thế được tiếp tục xác nhận là tồn tại cho đến khoảng thời gian cách đây gần năm thế kỷ, theo như những tài liệu được viết từ những người tiền nhiệm của Maester Yorrick ở White Harbor.

Điều này không có nghĩa rằng những Lục tiên nhân không biết về những thứ cao siêu thuộc về những quyền năng tối thượng (higher mysteries), như nhìn thấy những sự kiện ở một khoảng cách rất xa hoặc giao tiếp băng qua tận một nửa vương quốc (như những người Valyria, những người đã đến sau họ rất lâu, đã làm). Nhưng có lẽ một vài những khả năng mà những Lục tiên nhân có được bắt đầu từ những câu chuyện ngu ngốc nhiều hơn là sự thật. Họ không thể thay đổi hình dạng của mình thành những con thú, như một vài người có xu hướng nghĩ như thế, nhưng dường như đúng là họ có khả năng giao tiếp với những loài động vật theo cách mà chúng ta không thể có được bây giờ; và cũng từ đó mà những truyền thuyết về những Thú nhân (skinchangers hoặc beastlings) trỗi dậy.

Có một sự thật rằng, những truyền thuyết về những thú nhân có rất nhiều, nhưng câu chuyện phổ biến nhất – được mang về từ đằng sau Bức Tường bởi những người của Hội gác đêm, và được ghi chép lại bởi những giáo sĩ (septons) và học giả (maesters) trong nhiều thế kỷ qua – kể rằng những thú nhân không chỉ giao tiếp với những con quái thú mà còn kiểm soát chúng bằng tâm trí của họ. Thậm chí những người man tộc (wildling) nói rằng những thú nhân này gây ra sự sợ hãi khi nhìn họ như những người siêu nhiên, có thể kêu gọi những con vật trở thành đồng minh của họ. Một vài những câu chuyện nói về việc những thú nhân mất đi tâm thức của chính họ bên trong những con thú mà họ kiểm soát và những câu chuyện khác lại kể rằng những con vật có thể nói tiếng người khi một thú nhân kiểm soát chúng. Nhưng tất cả những câu chuyện đều thống nhất rằng đa phần họ đều có thể kiểm soát những con sói – thậm chí là những con sói tuyết to lớn – và khi đó họ được man tộc gọi bằng cái tên đặc biệt: Sói nhân (warg)

Truyền thuyết xa xôi hơn thì kể rằng những Lục tiên nhân cũng có thể đào sâu vào quá khứ và nhìn thấy tận tương lai xa xôi. Nhưng như tất cả những điều chúng ta biết hiện hữu trước mắt, Những quyền năng tối thượng mà xác nhận về năng lực này cũng xác nhận rằng những tầm nhìn của họ về những thứ xảy đến thường không rõ ràng và gây hiểu lầm – một điều dễ dàng lợi dụng để đánh lừa những kẻ không cảnh giác khi những kẻ đó đi tìm kiếm những lời tiên đoán. Mặc dù Những đứa con có những khả năng của riêng chúng, nhưng sự thật phải luôn được tách ra khỏi sự mê tín, và kiến thức phải được kiểm tra và đảm bảo chắc chắn. Những quyền năng tối thượng, những nghệ thuật của phép thuật, đã từng và tới bây giờ vẫn luôn vượt khỏi ranh giới của những con người phàm tục để có thể khám phá được chúng.

Mặc dù điều này có vẻ không đáng tin cậy, trong thời đại chúng ta, nhưng một mẩu ghi chép trong Unnatural History của Septon Barth đã đưa tới một dẫn chứng gây ra những tranh cãi trên khắp các hành lang ở Citadel. Xác nhận từ việc tham khảo những bài viết được lưu trữ tại Castle Black, Septon Barth đã cho biết rằng Những đứa con của rừng rậm có thể nói chuyện với những con quạ và khiến chúng lặp lại lời của họ. Theo Barth, quyền năng tối thượng này được Những đứa con truyền dạy cho Tiền Nhân để những con quạ có thể truyền đi những thông điệp ở một khoảng cách xa hơn. Giờ đây khả năng đó đã vịn xuống những học giả, ở một hình thái xuống cấp, khi mà những học giả này không biết cách nói chuyện với những con chim này. Sự thật là những người này cũng hiểu được lời nói của những con quạ… nhưng điều này chỉ hiểu đơn giản thông qua những mục đích khi chúng cào cấu và kêu ré, những dấu hiệu về nỗi sợ và sự giận dữ của chúng, và như là cách để chúng thể hiện sự sẵn sàng giao phối hoặc đang bị bệnh.Quạ là một trong những loài chim thông minh nhất, nhưng nó không thể thông khôn ngoan hơn lũ trẻ sơ sinh, và còn ít có khả năng nói sự thật nữa, dù cho Septon Barth có thể tin điều đó hay không. Một vài học giả, mang trên mình mắc xích kim loại thép Valyrian, đã đưa ra lý do để nói rằng Barth đã đúng, nhưng không một ai có thể chứng minh những xác nhận đó của Barth về việc nói chuyện giữa con người và lũ quạ.

Thế nhưng, dù cho sự thật về những khả năng của Những đứa con thế nào, thì bọn họ được dẫn dắt bởi những Lục tiên nhân của họ, và không có nghi ngờ gì về việc họ có thể đã từng được nhìn thấy từ Vùng đất của Mùa đông vĩnh cữu đến những bờ biển vùng Biển Mùa hè. Họ dựng những chỗ ở một cách đơn giản, kiến trúc lỏng lẻo, không lâu đài, không hành phố. Thay vào đó họ cư trú trong rừng, trong những hang động nằm trên đầm lầy (crannogs), những vùng đất ẩm ướt và những đầm lầy và thậm chí bên trong những hang động và những khoảng trống ở những ngọn đồi. Có người nói rằng, ở trong rừng, họ làm những nơi trú ẩn bằng lá cây và buộc những cành cây phía trên những cái cây – gọi là “những con phố” cây bí ẩn.

Nhiều câu chuyện từ lâu đã nói rằng họ làm điều này để bảo vệ chính họ khỏi những kẻ săn mồi như những con sói tuyết dữ tợn hoặc những con mèo to lớn dữ tợn không kém (shadowcat), mà những vũ khí làm từ đá đơn giản – và thậm chí là những Lục tiên nhân tài ba nhất của họ – cũng không thể chống lại. Nhưng những câu chuyện khác thì tranh cãi với điều này, nói rằng kẻ thù lớn nhất của họ là những người khổng lồ, như đã được gợi ý trong những câu chuyện được kể ở phương Bắc, và có thể được chứng minh bởi Maester Kennet trong nghiên cứu về một nghĩa địa gần hồ Long Lake – nơi chôn cất một người khổng lồ với những đầu mũi tên bằng đá vỏ chai được tìm thấy giữa những xương sườn còn sót lại. Điều này cũng gợi nhớ đến một bản ghi chép về một một bài hát của man tộc trong quyển sách History of the Kings-Beyond-the-Wall của Maester Herryk, liên quan đến hai anh em Gendel và Gorne. Họ được kêu gọi để hòa giải một cuộc tranh chấp giữa một nhóm trẻ em và một gia đình những người khổng lồ về việc sở hữu một hang động. Gendel và Gorne, như được kể, cuối cùng đã giải quyết vấn đề nhờ vào mánh khóe của họ, khiến cả hai bên không còn bất cứ khao khát nào đối với cái hang đó nữa, sau đó cả hai anh em đã khám phá ra hang động đó là một phần trong một chuỗi những hang động vĩ đại hơn mà điểm kết thúc của nó là ở bên dưới Bức Tường. Thế nhưng dù những người man tộc không có chữ viết, nhưng những câu chuyện lâu đời của họ đúng là khiến người khác phải ghen tị. Tuy nhiên, cuối cùng những quái thú của rừng rậm và những người khổng lồ cũng liên minh với nhau, trở thành những hiểm họa vô cùng lớn.

Có một khả năng xuất hiện rằng lúc này đã có Bảy Vương Quốc trong Thời kỳ Bình minh, và có một chủng tộc thứ ba đang sinh sống ở đó nhưng khả năng này quá thiếu cơ sở cho nên nó đã bị dập tắt ngay lập tức.Những người ở Đảo Sắt kể rằng khi Tiền Nhân lần đầu tiên đến Iron Isles đã tìm thấy chiếc ngai Seastone Chair nổi tiếng trên Old Wyk, nhưng lúc đó những hòn đảo này không có người ở. Nếu đúng như thế thì bản chất và nguồn gốc về những gì làm nên chiếc ngai này là một bí ẩn. Maester Kirth trong bản thu thập về những truyền thuyết của những người ở Đảo Sắt, Songs the Drowned Men Sing, đã nói rằng chiếc ngai đã bị lấy đi bởi những vị khách từ bên kia Vùng biển Hoàng hôn (Sunset Sea), nhưng không có bằng chứng gì cho câu chuyện này, mà chỉ là sự suy diễn từ vị học giả.

3. Sự xuyết hiện của Tiền nhân

Theo như những ghi chép liên quan nhất từ Citadel, đâu đó trong khoảng từ tám ngàn đến mười hai ngàn năm trước, ở những vùng đất xa nhất về phía Nam của Westeros, một chủng loài người mới đã băng qua dải đất bắc qua eo biển hẹp và và dải đất này kết nối những vùng đất phía đông với những vùng đất nơi Những đứa con và người khổng lồ sinh sống. Tại đây Tiền Nhân đã tới Dorn thông qua Cánh tay Gãy, khi thời này nó vẫn chưa bị đứt gãy. Tại sao những người này lại rời bỏ nơi sinh sống của họ thì chẳng ai biết được, nhưng khi họ tới, họ tới với số lượng rất lớn. Hàng nghìn người đến và bắt đầu chiếm những vùng đất, và qua nhiều thập kỷ, họ tiến càng ngày càng xa hơn về phía Bắc. Theo như những câu chuyện về thời kỳ di cư này, thì chỉ trong vài năm ngắn ngủi, Tiền Nhân đã di chuyển qua vùng Neck và tới phương Bắc. Tuy nhiên, thực tế thì điều này mất hàng thập kỷ , thập chí là hàng thế kỷ.

Những thông tin có thể chính xác nhất trong những câu chuyện được kể là Tiền Nhân rất nhanh chóng phát động chiến tranh với Những đứa con của rừng rậm. Không giống như Những đứa con của rừng rậm, Tiền Nhân trồng trọt trên những vùng đất và bắt đầu dựng lên những thành lũy và làng mạc. Và để làm điều này, họ bắt đầu chặt hạ những cây weirwood, bao gồm cả những cây đã được khắc khuôn mặt, và vì điều này, Những đứa con bắt đầu tấn công họ, dẫn tới cuộc chiến kéo dài hàng trăm năm. Tộc người đầu tiên, mang theo những vị thần xa lạ, ngựa, gia súc và những vũ khí bằng đồng, vừa đông và vừa khỏe hơn Những đứa trẻ, vì thế nên họ là một mối hiểm họa thực sự.

Những thợ săn trong Những đứa con – còn gọi là Những vũ công rừng rậm – trở thành những chiến binh của họ, nhưng cho dù sử dụng tất cả những bùa chú bí ẩn của cây và lá rừng, họ chỉ có thể làm chậm bước tiến của Tiền Nhân. Những Lục tiên nhân (greenseer) cũng đóng góp sức mạnh của mình, các câu chuyện kể lại rằng họ có thể gọi thú dữ ra từ đầm lầy, từ khu rừng hay từ bầu trời để chiến đấu theo ý muốn của họ: sói tuyết, những con gấu tuyết quái dị, sư tử và đại bàng, voi ma mút và rắn, và nhiều loài nữa. Nhưng Tiền Nhân quá mạnh, và Những đứa con sớm lâm vào tình trạng tuyệt vọng.

Các truyền thuyết nói rằng cơn đại hồng thủy khổng lồ đã bẻ gãy dải đất mà ngày nay gọi là Cánh tay Gãy và biến vùng Neck thành đầm lầy là do các Lục tiên nhân tạo ra, họ tập trung tại Moat Cailin để thực hiện những ma thuật bóng tối. Tuy nhiên có một vài câu chuyện mâu thuẫn với điểu này, rằng Tiền Nhân đã ở Westeros khi thiên tai xảy ra, và những cơn thủy triều từ phía đông chỉ làm chậm kế hoạch của họ một chút mà thôi. Hơn nữa, quyền năng kinh khủng đó nằm ngoài khả năng của các Lục tiên nhân, thậm chí cả những người xuất chúng trong số họ. Có vẻ như sự ngập lụt của vùng Neck và đứt gãy của The Arm là những thiên tai, có thể gây ra bởi một trận lụt tự nhiên. Giống như những gì đã quá nổi tiếng xảy ra ở Valyria, và như ở Đảo Sắt, lâu đài Pyke được đặt trên những tảng đá trên một hòn đảo lớn trước khi sụp đổ tan thành từng mảnh xuống biển.

Bất chấp điều này, Những đứa con của rừng rậm chiến đấu dữ dội ngang ngửa với Tiền Nhân để bảo vệ mạng sống. Cuộc chiến kéo dài qua nhiều thế hệ , cho tới khi rốt cuộc Những đứa con rừng rậm hiểu ra rằng họ không thể thắng. Trong khi đó Tiền Nhân cũng đã mệt mỏi vì chiến tranh và cũng mong muốn cuộc chiến kết thúc. Những người thủ lĩnh của hai phe gặp mặt ở Gods Eye để lập ra một giao ước. Từ bỏ tất cả các vùng đất của Westeros để rút vào rừng sâu, Những đứa con đã có được lời hứa từ Tiền Nhân rằng họ sẽ không chặt hạ những cây weirwood nữa. Tất cả những cây weirwood trên hòn đảo nơi giao ước được ký sau đó đã được khắc mặt để các vị thần có thể làm chứng cho giao ước, và hội các “green man” được thành lập để trông nom các cây weirwood và bảo vệ hòn đảo.Với giao ước này, Thời kỳ Bình Minh tiến dần tới kết thúc, và Kỷ nguyên Anh Hùng tiếp nối.

Việc những “green men” có còn sống trên hòn đảo của họ hay không thì không ai dám chắc, mặc dù một vài lãnh chúa vùng sông dại dột cũng từng đi thuyền ra đảo và bắt gặp họ và ngay lập tức bị một cơn gió mạnh hoặc một bầy quạ đuổi họ đi. Nhiều câu chuyện cổ tích kể rằng họ có sừng, và có da màu xanh đen, tuy nhiên đây chỉ là dị bản của sự thật rằng những “green men” mặc những chiếc áo choàng xanh và đội những chiếc mũ có sừng.

4. Kỷ nguyên của những anh hùng

Kỷ nguyên anh hùng kéo dài hàng nghìn năm, các vương quốc trỗi dậy rồi lại suy tàn, những gia tộc cao quý được lập ra rồi lại suy kiệt, và những cuộc chuyển giao đầy nước mắt được hoàn thành. Những gì chúng ta biết về thời kỳ này cũng không nhiều nhặn gì hơn là đối với Thời kỳ Bình Minh. Những câu chuyện chúng ta biết ngày nay được ghi chép lại bởi những thầy tu và các học sĩ hàng ngàn năm sau khi các sự việc xảy ra. Bởi vì không giống như Những đứa trẻ của rừng rậm và những người khổng lồ, Tiền Nhân ở Kỷ nguyên anh hùng để lại những tòa lâu đài cổ kính và đổ nát, và chúng có thể minh chứng cho một phần của lịch sử, và một số những tượng đài bằng đá được khắc những cổ ngữ. Chính nhờ những tàn tích này mà chúng ta đã có thể tìm ra sự thật đằng sau những câu chuyện kể.

Hầu hết đều đồng ý rằng, Kỷ nguyên anh hùng khởi đầu bằng Giao ước và mở ra hàng nghìn năm sống hòa bình giữa Tiền Nhân và Những đứa trẻ của rừng rậm. Với rất nhiều đất đai được nhượng lại, Tiền Nhân cuối cùng cũng có chỗ để sinh sôi. Từ Vùng đất của mùa đông vĩnh cửu đến những bờ biển ven Biển Mùa hè, Tiền Nhân cai trị trong những pháo đài của mình. Những vị vua nhỏ lẻ và những lãnh chúa quyền lực nổi lên rất nhanh, nhưng đôi khi một số đã chứng tỏ được rằng mình mạnh hơn những kẻ khác đã đặt nền móng cho những vương quốc khởi nguồn cho Bảy vương quốc mà chúng ta biết ngày nay.

Tên của những vị vua chúa ở thời đại đầu tiên này đã đi vào huyền thoại, và có những câu chuyện khẳng định rằng họ đã trị vì hàng trăm năm, nhưng thực tế thì đây chỉ là sự hiểu nhầm và truyền thuyết được kể bởi những người đời sau.

Những cái tên như Brandon Xây dựng, Garth Tay xanh, Lann Khéo léo và Duran Đau khổ thực sự là những cái tên đáng nhớ, nhưng có vẻ như những truyền thuyết về họ thì đa phần chỉ là hư cấu. Nói cách khác, tôi sẽ cố gắng lọc ra sự thật từ những hư cấu, nhưng hiện tại thì cũng đã đủ để chúng ta có thể hiểu được những câu chuyện kể.

Và bên cạnh những vị vua huyền thoại và hàng trăm vương quốc mà đã sinh ra Bảy vương quốc ngày nay, những câu chuyện về Symeon Mắt sao, Serwyn của vùng Mirror Shield, và những vị anh hùng khác đã trở thành cảm hứng cho rất nhiều những thầy tu và ca sĩ. Liệu những vị anh hùng này có tồn tại thật không? Có thể. Nhưng khi những ca sĩ liệt kê tên Serwyn của vùng Mirror Shield như là một trong số các Vệ Vương – một tước hiệu chỉ chính thức được lập ra ở thời của Aegon Kẻ chinh phục – thì chúng ta có thể hiểu tại sao rất ít những câu chuyện kiểu này có thể tin tưởng được. Thầy tu đầu tiên viết ra những câu chuyện chỉ kể những gì họ thích, rồi thêm thắt những thứ khác, rồi sau đó người ca sĩ thay đổi – đôi khi không ai nhận ra được – để hát trong những tòa sảnh của một vị lãnh chúa nào đó. Làm thế nào mà một vài người thuộc Tiền Nhân đã chết từ lâu rồi lại có thể trở thành hiệp sĩ và bảo vệ cho nhà vua Targaryen hàng nghìn năm sau thời của họ (nếu mà họ thực sự có tồn tại)? Vô số những thằng nhóc và những người trẻ tuổi đã thêm thắt sự dốt nát của họ vào một phần lịch sử của Westeros.

Tốt nhất, chúng ta nên nhớ rằng: Khi chúng ta nói về những người huyền thoại đã sáng lập nên những đế chế, chúng ta chỉ đơn thuần nói về những lãnh địa – thường được đặt ở trung tâm và trên những vị trí cao, ví dụ như Casterly Rock hoặc Winterfell – mà theo thời gian càng ngày càng bành trướng rộng hơn và nắm giữ nhiều quyền lực hơn. Nếu như Garth Tay xanh đã từng cai trị vùng đất mà ông ấy gọi là Vương Quốc vùng Reach, thì có vẻ là phạm vi của nó chỉ trong khoảng hai tuần cưỡi ngựa từ tòa thành của ông ấy. Thế nhưng, chính từ những vùng đất nhỏ lẻ tẻ như vậy đã khai sinh ra những vương quốc hùng mạnh hơn nhiều mà đã thống trị cả Westeros trong cả thời đại hoàng kim sau này.

5. Đêm trường

Khi Tiền Nhân thành lập những đế chế của mình căn cứ theo Giao ước, rất ít người còn giữ thù hận và ham muốn chiến tranh trong lòng, hoặc chí ít là lịch sử nói vậy. Cũng từ giai đoạn lịch sử này mà chúng ta được biết về Đêm Trường, khi mà một mùa đông đến và kéo dài cả một thế hệ – một thế hệ mà những đứa trẻ được sinh ra, trưởng thành và rồi rất nhiều người chết đi mà vẫn không được nhìn thấy mùa xuân. Quả thực, theo những câu chuyện kể lại của những người già thì họ thậm chí chưa từng được nhìn thấy ánh sáng ban ngày, bởi vì tuyết rơi quá dày trên toàn thế giới. Tại sao mùa đông lại kéo dài đến vậy vẫn chỉ là những giả thuyết, có vẻ là những trận đại hồng thủy lớn diễn ra hàng ngàn năm trước cũng có liên quan. Lomas Longstrider, trong quyển sách Woders Made by Man (những kỳ quan của loài người), có đề cập đến việc ông gặp hậu duệ của Rhoynar ở bãi phế tích của thành phố Chroyane, có một số câu chuyện kể rằng ở nơi này, bóng tối đã khiến cho cả dòng họ Rhoyne suy tàn và biến mất, nước ở đây đóng băng xuống tận phía Nam tới tận Selhoru. Căn cứ theo những câu chuyện này, Mặt Trời chỉ trở lại khi một người anh hùng thuyết phục được những đứa con của Đức Mẹ Rhoyne – những á thần như là Vua Cua và Ông già trên sông – để họ chấp nhận bỏ qua những xích mích và cùng nhau hát một bài hát bí mật có thể mang ban ngày trở lại.

Sử sách cũng ghi lại rằng có một biên niên sử về bóng tối ở Asshai, trong đó có một người anh hùng đã chiến đấu chống lại bóng tối bằng một lưỡi kiếm đỏ. Những chiến công này của anh ta được kể lại rằng diễn ra trước thời kỳ đế chế Valyria trỗi dậy, vào những năm đầu của thời Old Ghis bắt đầu gây dựng đế chế của mình. Huyền thoại này được lan truyền từ Asshai sang phía Tây, và những người tôn thờ thần R’hllor khẳng định rằng tên của vị anh hùng này là Azor Ahai, và tiên đoán rằng anh ta sẽ trở lại. Trong quyển Jade Compendium, Colloquo Votar có đề cập đến một hyền thoại lạ lùng ở Yi Ti, nơi mà mặt trời lặn mãi mãi, và các dịch bệnh chỉ có thể được chữa trị bởi một người phụ nữ có cái đuôi khỉ.

Cho dù Citadel đã nỗ lực rất lâu để tìm ra cách thưc dự đoán độ dài và sự thay đổi của các mùa, nhưng tất cả họ đều thất bại. Barth lý luận bằng một luận chứng chắp vá rằng sự hiện diện của các mùa là do một dạng ma thuật chứ không phụ thuộc vào những kiến thức của con người. Trong cuốn sách The Measure of the Days của Học sĩ Nicol – một cuốn sách đáng khen ngợi và rất hữu dụng – có vẻ như cũng bị ảnh hưởng bởi lý luận này. Dựa trên những nghiên cứu của mình về sự di chuyển của các vì sao trên bầu trời, Nicol lý luận một cách thiếu thuyết phục rằng đã từng có một thời mà các mùa có chiều dài thông thường, quy định bởi cách Trái Đất đối diện với Mặt Trời trong hành trình của nó. Quan điểm đằng sau những lý luận này xem chừng là có lý – rằng sự kéo dài hoặc rút ngắn của ngày đều đặn hơn sẽ khiến cho các mùa đều đặn hơn – nhưng ông ta cũng chẳng đưa ra được bằng chứng nào ngoài những câu chuyện kể.

Tuy nhiên, nếu mùa đông này đến, như những câu chuyện kể, thì tình trạng thiếu thốn sẽ vô cùng khủng khiếp. Trong suốt những mùa đông tàn khốc nhất, theo truyền thống, những người già và ốm yếu nhất trong số người phương Bắc sẽ đi săn – biết chắc chắn rằng mình sẽ không bao giờ có thể quay về nhưng họ vẫn đi để dành thêm một chút thức ăn cho những người có hy vọng sống hơn. Không nghi ngờ gì nữa, đây là chuyện rất bình thường trong thời kỳ Đêm Trường.

Cũng có một số câu chuyện khác về những sinh vật được gọi là Ngoại nhân. Theo những câu chuyện này, chúng đến từ vùng đất băng giá Vùng đất của mùa đông vĩnh cửu, mang theo cái giá lạnh và bóng tối khi chúng săn lùng và dập tắt mọi ánh sáng và hơi ấm. Những câu chuyện tiếp tục kể rằng chúng cưỡi những con nhện băng quái dị và những con ngựa chết được hồi sinh lại để phục vụ chúng, cũng như là chúng hồi sinh những người chết để chiến đấu theo ý chúng.

Truyền thuyết kể rằng lũ Ngoại nhân cưỡi những con nhện băng và ngựa đã chết

Cái cách mà Đêm trường kết thúc là một huyền thoại, cũng như những sự kiện trong thời gian này. Ở phương Bắc, họ kể về một người anh hùng đi tìm kiếm sự giúp đỡ từ Những đứa trẻ rừng rậm, những đồng đội của anh ta lần lượt từng người một bỏ trốn, hoặc chết khi đối mặt với những tên khổng lồ hung dữ. Khi chỉ còn lại một mình, cuối cùng anh ta cũng tìm đến được Những đứa trẻ, bất chấp sự ngăn cản của bọn Bóng Trắng, và tất cả những câu chuyện đều ghi nhận rằng đây chính là bước ngoặt. Nhờ Những đứa con, những người đầu tiên của Đội tuần đêm tập hợp lại với nhau, cùng nhau chiến đấu, và chiến thắng Trận chiến vì bình minh – trận chiến đã chấm dứt mùa đông vĩnh cửu và đuổi bọn Ngoại nhân rút lui về phía Bắc băng giá. Giờ đây, sau 6000 năm (hay 8000 năm theo như cuốn sách True History), Bức Tường được dựng lên để bảo vệ đế chế loài người vẫn được canh giữ bởi những người anh em Đội tuần đêm, và cả lũ Ngoại nhân lẫn Những đứa trẻ rừng rậm đều đã biến mất suốt nhiều thế kỷ.

Trong quyển Lies of the Ancients của Đại học sĩ Fomas – dù ít được tôn trọng ngày nay vì đã sai lầm trong những khẳng định liên quan đến sự sáng lập đế chế Valyria và vùng Reach- đã mô tả rằng loài Ngoại nhân trong truyền thuyết chẳng qua chỉ là một nhánh của Tiền nhân, tổ tiên của man tộc, tự thành lập ở rất xa phía Bắc. Bởi vì Đêm trường, những man tộc đầu tiên này bị buộc phải di cư về phía Nam. Lí do họ bị mô tả quái dị trong các câu chuyện về sau, theo như Fomas, là do ý muốn của Đội tuần đêm và nhà Stark nhằm tạo ra cho họ một danh phận anh hùng cứu rỗi loài người và rằng họ không tìm kiếm lợi lộc gì trong việc thống trị cả.

6. Sự trỗi dậy của đế chế Valyria

Khi Westeros phục hồi sau Đêm trường, một thế lực mới đã trỗi dậy ở Essos. Một lục địa rộng lớn, kéo dài từ Biển Hẹp cho tới Biển Ngọc huyền bí và Ulthos xa xôi, có vẻ là nơi mà nền văn minh mà ta biết tới phát triển. Những thành tựu đầu tiên (bất chấp những điều mơ hồ về Quarth, những truyền thuyết của Yi Ti về Đế chế Bình Minh vĩ đại, và sự khó khăn trong việc tìm hiểu sự thật về những huyền thoại ở Asshai) được bắt nguồn từ Old Ghis: một thành phố được gây dựng dựa trên chế độ nô lệ. Người sáng lập vĩ đại của thành phố, Grazdan Vĩ đại, vẫn còn được tôn kính tới mức ngày nay vẫn còn nhiều người trong các gia đình nô lệ được đặt theo tên của ông. Căn cứ theo các tài liệu lịch sử cổ xưa nhất của Ghiscari, ông là người đã sáng lập ra “đội quân cùm chân” cùng với những chiếc khiên cao và 3 mũi giáo, được biết đến như là đội quân đầu tiên chiến đấu có kỷ luật. Old Ghis và quân đội của nó tiến hành xâm lược các vùng đất xung quanh, và sau đó tiếp tục chinh phục các vương quốc láng giềng. Đó là cách mà đế chế đầu tiên được sinh ra, và duy trì sự trị vì tối cao của mình trong hàng thế kỷ.

Những lãnh chúa rồng của đế chế Valyria

Trên hòn đảo lớn gần Vịnh nô lệ, những người mà sau này sẽ chấm dứt đế chế Old Ghis – dù không phải là hoàn toàn- đã bắt đầu hành trình của họ. Những người Valyrian trú ẩn ở đây, giữa những ngọn núi lửa hùng vĩ tên là Mười bốn Ngọn lửa. Họ học được cách thuần hóa rồng và biến chúng thành thứ vũ khí kinh hoàng nhất mà thế giới từng được chứng kiến. Những câu chuyện mà người Valyrian tự kể về chính mình khẳng định rằng họ là hậu duệ của loài rồng và có quan hệ họ hàng với con rồng mà họ điều khiển.

Trong những tàn dư còn sót lại của cuốn Unnatural History, các thầy tu đã xem xét rất nhiều những truyền thuyết phân tích về nguồn gốc của rồng và làm thế nào mà chúng lại bị điều khiển bởi người Valyrian. Người Valyria tự khẳng định rằng rồng xuất hiện chính là những đứa con của ngọn núi Mười bốn Ngọn lửa, trong khi ở Quarth thì các câu chuyện tuyên bố rằng đã từng một thời có một mặt trăng thứ hai trên bầu trời. Một ngày nọ, mặt trăng này bị thiêu đốt bởi mặt trời rồi bắt đầu nứt ra như một quả trứng và hàng triệu con rồng thoát ra. Ở Asshai, nhưng câu chuyện rất nhiều và rất lộn xộn, nhưng những tài liệu đích xác nhất – tất cả đều là những tài liệu cổ quan trọng – đều khẳng định rằng đầu tiên rồng đến từ Bóng Tối, nơi mà không ai trong chúng ta am hiểu được. Những lịch sử của vùng Asshai nói rằng có một người đàn ông sống ở thời cổ xưa tới mức mà ông ta không có tên, ông đã thuần hóa những con rồng tại vùng đất Bóng Tối và mang chúng đến Valyria, dạy người Valyria những kỹ năng này và khởi đầu cho một biên niên sử.

Thế nhưng nếu như những người ở vùng đất Bóng Tối đã thuần hóa được rồng trước, tại sao họ không đi chinh phục như người Valyrian đã làm? Thế nên có vẻ như những câu chuyện của người Valyrian là chính xác nhất. Thế nhưng theo như lịch sử kể lại, thì rồng đã có mặt ở Westeros rất lâu trước khi người Targaryen đến. Nếu như rồng được sinh ra từ ngọn Mười bốn Ngọn lửa, chúng chắc hẳn là đã phải phân tán ra khắp thế giới trước khi chúng bị thuần hóa. Và thực tế thì điều này là có bằng chứng, những bộ xương rồng được tìm thấy từ tít xa về phía Bắc tại Ib, hay thậm chí trong những khu rừng vùng Sothoryos. Nhưng người Valyrian đã tận dụng và chinh phục chúng theo cái cách mà không ai khác làm được.

Vẻ đẹp tuyệt trần của người Valyria – mái tóc màu bạc hoặc vàng nhạt và đôi mắt màu tím không thế lẫn với bất cứ ai khác trên thế giới – cực kỳ nổi tiếng, và đây cũng là bằng chứng rằng người Valyria không hoàn toàn chung dòng máu với những con người khác. Tuy nhiên có những học sĩ đã chỉ ra rằng, bằng sự gần gũi với động vật một cách cẩn thận, một người có thể đạt được kết quả đáng mơ ước, và những cộng đồng người sống cô lập cũng có thể sinh ra những đặc điểm khác biệt đáng kể với những đặc tính chung thường thấy. Đây có vẻ như là một câu trả lời hợp lý cho nguồn gốc đầy bí ẩn của người Valyria, mặc dù vậy nó cũng không giải thích được sự liên kết với loài rồng mà rõ ràng là có trong máu của họ.

Người Valyria không có vua mà thay vi đó họ tự gọi mình là Freehold (những người gìn giữ tự do) bởi vì tất cả cư dân thành phố có đất đai đều có tiếng nói. Các những quan chấp chính có thể được chọn ra để giúp người lãnh đạo, nhưng họ được bầu ra bởi những lãnh chúa tự do trong số họ, và chỉ trong một thời gian có hạn. Rất hiếm khi Valyria được cai trị bởi duy nhất một gia đình lãnh chúa mặc dù vẫn có ngoại lệ.

Năm cuộc chiến giữa người Freehold và Old Ghis từ thời kỳ xa xưa của thế giới đã đi vào huyền thoại – những đám cháy kinh hoàng kết thúc bằng chiến thắng dành cho người Valyrian trước người Ghiscari. Ở cuộc chiến lần thứ năm, và cũng là lần cuối, người Freehold quyết định rằng họ cần phải chắc chắn rằng sẽ không có lần thứ sáu. Những bức tưởng thành cổ của Old Ghis, được dựng lên bởi Grazdan Vĩ đại từ thời cổ xưa, đã bị san bằng. Những kim tự tháp khổng lồ, đền thờ và nhà cửa đã bị nhấn chìm trong biển lửa rồng. Những nông trại bị rắc muối, vôi, và sọ người. Rất nhiều người Ghiscary bị giết, và nhiều người khác bị bắt làm nô lệ và chết trong khi đang làm việc cho chủ của mình. Và người Ghiscari trở thành một phần của đế chế Valyria mới, và theo thời gian, họ quên luôn ngôn ngữ của mình, bắt đầu học tiếng High Valyrian. Và những đế chế kết thúc rồi những đế chế khác trỗi dậy như vậy đó.

Ngày nay những tàn dư còn sót lại của đế chế Old Ghis vĩ đại một thời là rất vụn vặt – một vài thành phố vẫn còn bám víu ở Vịnh nô lệ và một số vẫn còn cố gắng giả vờ như là Old Ghis còn có thể quay trở lại. Sau thảm họa Tận thế của đế chế Valyria, những thành phố thuộc Vịnh nô lệ đã thoát khỏi những xiềng xích cuối cùng của người Valyrian, thực sự tự cai trị chính mính chứ không cần giả vờ nữa. Và những tàn dư của Ghiscari lại trở lại thông qua việc giao dịch nô lệ – mặc dù có chút khác biệt, trước kia họ cướp nô lệ từ chiến tranh, giờ thì họ mua bán và nhân giống.

“Gạch và máu đã xây dựng nên Astapor, rồi gạch và máu cũng nuôi dưỡng con người nơi đây”, một ngạn ngữ cổ, liên quan đến những bức tường thành xây bằng gạch đỏ của thành phố và máu đã đổ bởi hàng nghìn nô lệ đã sống, lao động và chết để xây dựng những bức tường đó. Được cai trị bởi những người tự gọi mình là Những Chủ nhân tốt bụng (The Good Masters), Astapor nổi tiếng nhất với việc tạo ra những chiến binh nô lệ bị hoạn – được gọi là Unsullied- những người đàn ông được nuôi nấng từ khi còn bé để trở thành những chiến binh không biết sợ hãi và không biết đau đớn. Những người Astapor giả vờ rằng họ chính là “quân đội cùm chân” của đế chế cũ trở lại, nhưng khác biệt ở chỗ những quân đội kia được tự do, còn các Unsullied thì không.

Ở Yunkai, thành phố vàng, không cần phải nói nhiều, đây là nơi ô nhục nhất. Những người cai trị nơi đây tự gọi mình là Những chủ nhân thông thái (The Wise Masters) chìm đắm trong sự đồi bại, buôn bán nô lệ làm gái điếm, trai bao và còn tệ hơn thế nữa.

Thành phố quy củ nhất của Vịnh nô lệ là Meereen cổ kính, nhưng cũng như những nơi khác, cũng trở thành một nơi thối nát. Dân cư ở đây là một phần của những tầng lớp cao quý của đế chế cũ. Những bức tường gạch rất nhiều màu của thành phố này mang trong nó sự khổ đau vô hạn, vì những chủ nhân của Meereen huấn luyện nô lệ để chiến đấu và chết theo ý mình trong những đấu trường đẫm máu.

Cả ba thành phố đều chấp nhận cống nạp để làm hòa với các khalasar, chứ không chọn đối đầu với họ trên chiến trận, nhưng người Dothraki cũng cung cấp rất nhiều nô lệ cho người Ghiscary để huấn luyện và bán – những nô lệ họ cướp được từ những cuộc chinh phục và bán ở các chợ người tại Meereen, Yunkai và Astapor.

Thành phố quan trọng nhất trong các thành phố của người Ghistary lại là nơi nhỏ nhất và mới nhất: New Ghis, được vận hành theo cách riêng của nó. Ở đây, các chủ nhân cũng xây dựng những binh đoàn sắt giống với các bình đoàn từ thời đế chế cũ, nhưng không giống như các Unsullied, họ là những người tự do, giống như những chiến binh từ thời đế chế cũ.

Sự sụp đổ của Old Ghis

7. Những Đứa con của Đế chế Valyria

Những người Valyria đã học được một thứ đáng bị lên án từ những người Ghiscar: Chế độ nô lệ. Và kết quả là chính những người Ghiscar sau khi bị những người Valyria xâm lược đã trở thành những nô lệ đầu tiên, nhưng chắc chắn không phải cuối cùng. Những ngọn núi đang cháy ngùn ngụt ở Mười bốn ngọn lửa rất giàu khoáng vật, và những người Valyria đã thèm khát nó từ lâu: đồng đỏ và thiếc dùng để tạo ra đồng thiếc cho những vũ khí và những công trình của họ; sau đó là sắt để luyện nên thép cho những thanh kiếm huyền thoại của họ; và luôn dùng vàng và bạc để trao đổi toàn bộ những thứ đó.

Những thứ làm từ thép Valyria rất nổi tiếng, và đó là kết quả từ việc sắt được xử lý nhiều lần để tạo độ cân bằng và loại bỏ những tạp chất, và sử dụng thần chú – hoặc ít nhất là nghệ thuật gì đó mà chúng ta không biết – để tạo ra sức mạnh siêu nhiên vào những tấm thép thành phẩm. Những nghệ thuật đó bây giờ đã bị thất truyền, mặc dù những thợ rèn tại Qohor xác nhận vẫn biết những phép thuật để tái hiện lại loại thép Valyria mà không mất đi sức mạnh và khả năng vượt trội trong việc giữ được độ sắc bén của chúng dù đã qua nhiều lần sử dụng. Những lưỡi kiếm từ thép Valyria hiện trên thế giới có thể tới hàng ngàn, nhưng ở Bảy Vương quốc chỉ có 227 vũ khí được làm từ thép Valyria theo như ghi chép trong Inventories của Archmaester Thurgood, một số đã bị thất lạc hoặc không xuất hiện trong suốt chiều dài của lịch sử.

Không một ai có thể nói bao nhiêu người đã chết, khi làm những công việc vô cùng nặng nhọc bên dưới những hầm mỏ của người Valyria, nhưng có lẽ con số đó lớn đến nỗi bất cứ ai cũng sẽ từ chối việc tiếp nhận thông tin đó. Khi Valyria lớn mạnh, nhu cầu về khoáng vật của nó cũng tăng theo, dẫn đến nhiều cuộc chinh phạt hơn để giữ hầm mỏ của họ luôn đầy nhóc những nô lệ. Những người Valyria tỏa đi khắp mọi hướng, đi thẳng về phía đông vượt ra ngoài các thành phố của người Ghiscar và phía tây đến tận bờ biển Essos xa xôi, nơi mà thậm chí người Ghiscar còn chưa bắt đầu tạo được ảnh hưởng đáng chú ý gì đến nơi đó.

Sự bùng lên dữ dội đầu tiên của đế chế mới này đóng một vai trò cực kỳ quan trọng đối với vùng Westeros và tương lai của Bảy Vương quốc. Khi Valyria tìm cách chinh phạt càng lúc càng nhiều những vùng đất và các tộc người, thì một số chủng tộc đã bỏ trốn để tìm kiếm sự an toàn, lánh đi trước cơn thủy triều của người Valyria.

Trên bờ biển của vùng Essos, những người Valyria đã xây dựng các thành phố, mà ngày nay chúng ta gọi là Thành phố Tự trị (Free Cities). Và nguồn gốc của chúng rất đa dạng.

Qohor và Norvos được thành lập theo sau những ly khai về tôn giáo. Những thành phố khác, như Old Volantis và Lys, trước nhất nó là những thuộc địa dựa trên mua bán, được thành lập bởi những thương nhân và những quý tộc giàu đó, những người đã mua lại quyền hợp pháp để tự mình cai trị và những thành phố này được xem như những “khách hàng” của Freehold hơn là chịu sự kiểm soát từ Freehold. Những thành phố này tự chọn ra những người đứng đầu hơn là nhận về những quan nhiếp chính được gửi đến từ Valyria (thường ngồi trên lưng rồng) để giám sát họ. Trong một vài những giai đoạn lịch sử, cũng đã xác nhận rằng Pentos và Lorath từng là những thành phố thuộc kiểu thứ ba, đã tồn tại trước khi những người Valyria tới và những người cai trị ở những thành phố này đã thể hiện lòng tôn kính dành cho Valyria và vì thế họ vẫn giữ được quyền cai trị tại thành phố của họ.

Ở những thành phố này, những gì xảy ra là một số lượng lớn những người mang dòng máu Valyria di cư đến từ Freehold, hoặc dùng những cuộc hôn nhân chính trị để ràng buộc tốt hơn những thành phố này với Valyria. Thế nhưng hầu hết những câu chuyện lịch sử được kể lại đều lấy từ nguồn ghi chép trong quyển sách Before the Dragons của Gessio Haratis. Theo đó, Haratis vốn là người đến từ Pentos, và lúc đó, Volantis đang đe dọa sẽ khôi phục đế chế Valyrian dưới sự kiểm soát của nó, vì thế ý định về một Pentos độc lập với những nguồn gốc vốn dĩ khác biệt với Valyria là một điều thích hợp và khôn ngoan nhất.

Tuy nhiên, rõ ràng Braavos là thành phố độc nhất trong số tất cả Những thành phố Tự trị (Free Cities), nó được thành lập không phải từ chủ ý của Freehold hay những cư dân của nó mà từ những người nô lệ. Theo như những câu chuyện của người Braavos, một hạm đội tàu hùng hậu của các chủ nô đã trở thành nạn nhận của một cuộc nổi dậy từ những nô lệ khi nó bị bại lộ về việc thu thập những cống phẩm bằng thịt người từ những vùng biển Mùa hè và biển Ngọc; sự thành công của cuôc bạo loạn rõ ràng là nhờ vào tình huống khi những người Valyria có khả năng đã sử dụng những nô lệ như những người chèo thuyền hoặc những thủy thủ và rồi những người này sau đó đã tham gia bạo loạn.

Giành quyền kiểm soát đội tàu nhưng nhận ra rằng không có nơi nào gần đó để ẩn mình khỏi Freehold, thay vào đó những nô lệ đã lựa chọn việc tìm kiếm những vùng đất cách xa khỏi Valyria và những thuộc địa của nó, và tự mình thành lập thành phố ở một vị trí bí ẩn. Truyền thuyết kể khi những ca sĩ ánh trăng (moonsingers) đã tiên tri rằng đội tàu phải di chuyển thật xa về hướng Bắc đến một tọa độ đã bị quên lãng của Essos – nơi có những bãi bồi, những vùng nước lợ và đầy sương mù. Ở đó, những nô lệ đã đặt nền móng đầu tiên cho sự hình thành nên thành phố của họ.

Trong nhiều thế kỷ, người Braavos vẫn ẩn mình khỏi thế giới ở vùng nước lợ xa xôi của họ. Và thậm chí sau này khi nó tự mình hiện ra trước thế giới, Braavos vẫn tiếp tục được biết đến như Thành phố Bí ẩn (Secret City). Người Braavos vô cùng đa dạng: nhiều những chủng tộc, hàng trăm ngôn ngữ, và thờ hàng trăm vị thần. Tất cả bọn họ đều có điểm chung là ngôn ngữ trao đổi dùng chung của vùng Essos mà những người Valyria đã hình thành nên – và sự thật là họ bây giờ đã tự do khỏi nơi mà họ đã từng bị nô lệ. Những ca sĩ ánh trăng được vinh dự để dẫn dắt họ đến thành phố của họ, nhưng những người thông thái nhất trong những nô lệ tự do quyết định rằng, để kết nối mọi người với nhau, họ phải chấp nhận tất cả những vị thần mà những nô lệ mang theo bên người, và tất cả mọi vị thần đều bình đẳng.

Những dòng lửa của Mười bốn ngọn lửa chảy tràn khắp Valyria, tiếp nhiên liệu
cho phép thuật các Pháp sư lửa

Nhìn chung, cho đến nay những cái tên và những con số về những tộc người đã chết đi dưới sự chinh phạt của Valyria vẫn là một ẩn số đối với chúng ta. Nhưng gì mà người Valyria ghi chép về những cuộc chinh phạt của họ phần lớn đều bị phá hủy bởi sự kiện Tận thế, và sẽ có một vài ghi chép nếu có bất cứ tộc người nào kể lại về lịch sử của chính họ, về cách mà họ đã sống sót dưới sự thống trị của Freehold.

Một vài ở đây, như là người Rhoyne, có hành động chống lại cơn thủy triều của người Valyria kéo dài hàng thế kỷ, thậm chí là hàng thiên niên kỷ. Người Rhoyne, những người đã thành lập nên những thành phố vĩ đại dọc theo bờ sông Rhoyne, được kể rằng là những người đầu tiên học được nghệ thuật làm ra sắt. Cũng như, sự liên minh những thành phố mà sau này được gọi là Kingdom of Sarnor đã sống sót khỏi sự bành trướng của người Valyria nhờ vào vùng đồng bằng rộng lớn tách biệt nhau… chỉ khi vùng đồng bằng đó và có một tộc người đã kiểm soát nó – những kỵ sĩ trên lưng ngựa, Dothraki – và từ đó trở thành nguồn gốc của sự sụp đổ Sarnor sau sự kiện Tận thế.

Về lịch sử của Valyria như được biết ngày hôm nay, nhiều bản ghi chép được viết trong nhiều thế kỷ, và những chi tiết về những cuộc chinh phạt của họ, sự thuộc địa hóa của họ, sự thù hận của những lãnh chúa rồng, những vị thần họ thờ phụng và nhiều thứ nữa có thể lấp đầy những thư viện và vẫn chưa được hoàn thành. The Fires of the Freehold của Galendro được xem là những ghi chép đồ sộ về những câu chuyện lịch sử đáng tin cậy nhất của Valyria, và bản ghi chép lại của nó tại Citadel hiện vẫn thiếu tận hai mươi bảy cuộn giấy.

Và có những tộc người không phải là nô lệ nhưng không thể chịu đựng được sự thống trị của người Valyria nên đã bỏ trốn khỏi Valyria. Nhiều tộc người đã thất bại và bị lãng quên. Nhưng có một tộc người, cao và có mái tóc vàng, đã can đảm và bất khuất bởi đức tin của họ, đã thành công trong việc trốn thoát khỏi Valyria. Và những người đó chính là người Andalos.

8. Bước chân của người Andalos

Những người Andalos có nguồn gốc tại những vùng đất của Đỉnh rìu, phía đông và phía bắc nơi mà giờ đây là vị trí của Pentos, mặc dù họ đã ở đó trong nhiều thế kỷ nhưng một tộc người di cư thì không ở lại một nơi nào quá lâu. Từ vùng trung tâm của Đỉnh rìu – một vùng đất to lớn nằm trên đỉnh núi, được bao quanh bốn bề là Biển Rùng mình – họ đã đi về hướng Nam và hướng Tây để tạo ra Adalos: vương quốc cổ xưa mà người Andalos đã cai trị trước khi họ băng qua biển hẹp.

Andalos trải dài từ Đỉnh rìu đến những nơi mà bây giờ là Duyên hải của người Braavos, và phía nam xa tận Vùng đất bằng và Những ngọn đồi Nhung. Người Andalos đã trang bị những vũ khí bằng sắt và mặc những bộ giáp sắt khiến những bộ tộc sinh sống ở những vùng đất đó chỉ có thể chống lại họ một cách yếu ớt. Điển hình trong số đó là tộc người rậm lông (Hairy men); tên của họ bị mất, nhưng họ vẫn được ghi nhớ rất rõ ràng trong những câu chuyện lịch sử của người Pentos. (Người Pentos tin rằng họ có họ hàng với người vùng Ib, và những câu chuyện lịch sử của Citadel hầu hết đều đồng ý, mặc dù một số người tranh cãi rằng tộc người rậm lông đã thiết lập nên Ib, và một số người khác thì cho rằng tộc người rậm lông ngay từ đầu đã có nguồn gốc từ Ib.)

Thực tế là người Andalos đã được rèn sắt, được thực hiện nhờ vào sự chỉ dẫn của Thất diện thần – mà cụ thể chính Thần Thợ rèn đã dạy họ nghệ thuật này – và chỉ dạy họ nhờ vào những ký tự thần thánh. Nhưng người Rhoyne đã có một văn minh vượt bậc vào khoảng thời gian này và họ cũng biết về sắt, vì thế chỉ cần nghiên cứu một tấm bản đồ cũng nhận ra rằng những người Andalos đầu tiên nhất hẳn đã có mối liên hệ với người Rhoyne. Vùng Darkwash và vùng Noyne cùng nằm trên con đường theo hướng di cư của người Andalos, và có những tàn dư về tiền đồn của người Rhoyne ở Andalos, theo như nhà sử gia người Norvos, Doro Golathis. Và nó sẽ không phải là lần đầu tiên con người học được cách làm việc với sắt từ Rhoyne; người ta cũng nói rằng những Valyria cũng đã học được nghệ thuật đó từ Rhoyne, mặc dù người Valyria cuối cùng đã vượt qua họ về nghệ thuật này.

Trong hàng ngàn năm người Andalos sinh sống tại Andalos, số lượng của họ ngày một tăng lên. Trong những quyển sách về thần thánh cổ xưa nhất, The Seven-Pointed Star, kể rằng Thất diện thần tự họ đã đi cùng với những người dân của họ trên những ngọn đồi của Andalos, và họ đã trao vương miện cho Hugor of the Hill và hứa hẹn với anh ta và con cháu của anh ta về những vương quốc rộng lớn hơn ở một vùng đất xa xôi khác. Vì thế mà các Thất sĩ nam (septons) và Thất sĩ nữ (septas) đều chỉ dạy rằng đó là lý do mà người Andalos rời khỏi Essos và đánh về phía tây đến tận vùng Westeros, thế nhưng lịch sử mà Citadel vẫn chưa khám phá được qua nhiều thế kỷ có lẽ sẽ đưa ra lý do nào đó hợp lý hơn.

Một truyền thuyết lâu đời được kể ở Pentos xác nhận rằng người Andalos đã sát hại dã man những thiếu nữ thiên nga, những vị thần đã dụ dỗ những khách bộ hành để dẫn đến những cái chết của họ nằm lại ở Đồi nhung cho tới phía đông của Thành phố tự trị (Free City). Người anh hùng mà những ca sĩ người Pentos gọi là Hukko đã dẫn dắt người Andalos thời điểm đó, và cũng nói rằng anh ta đã giết bảy thiếu nữ không phải vì những tội lỗi của họ mà thay vào đó là hiến tế cho những vị thần của anh ấy. Có một vài những học giả đã ghi chú rằng Hukko cũng có thể chính là một cái tên kết xuất ra tên Hugor. Nhưng những truyền thuyết cổ xưa đến từ phía đông phải bị nghi ngờ về tính chính xác hơn cả những truyền thuyết được kể tại Bảy Vương Quốc. Quá nhiều những tộc người đã đi qua lại vùng phía đông của Bảy Vương Quốc, và quá nhiều những truyền thuyết và những câu chuyện đã trộn lẫn vào nhau.

Trong một vài thế kỷ, khi người Andalos trở nên phồn vinh tại Hills of Andalos, và hầu như họ không còn quan tâm gì nữa. Nhưng với sự sụp đổ của Old Ghis khi Freehold of Valyria mở cuộc chinh phạt lớn và xâm chiếm các thành phố thành thuộc địa nhằm mục đích mở rộng lãnh thổ và tìm kiếm thêm nhiều nô lệ. Đầu tiên, người Rhoyne sử dụng con sông Rhoyne như một lá chắn. Ngay khi người Valyria đi tới con sông to lớn đó, họ nhận thấy rất khó để đưa quân của mình băng qua. Những lãnh chúa trên lưng rồng có thể không khó khăn gì, nhưng bộ binh và kỵ binh lại thấy nản chí khi đối mặt với sự kháng cự của người Rhoynish, vì cho rằng người Rhoynish bây giờ cũng mạnh mẽ như khi Ghis đang ở phong độ tốt nhất của nó. Có một thỏa thuận ngừng chiến trong nhiều năm giữa người Valyria và người Rhoyne, nhưng nó chỉ bảo vệ người Andalos ở một mức nào đó.

Ngay cửa sông Rhoyne, người Valyria thành lập những thuộc địa đầu tiên của họ. Ở đó, Volantis được trỗi dậy bởi những người giàu có nhất của Freehold để tập trung sự thịnh vượng đã chảy xuống Rhoyne, và từ Volantis những đội quân chinh phạt của họ băng qua sông bằng sức mạnh hùng hậu. Có thể đầu tiên, người Andalos có lẽ đã chiến đấu chống lại, và có thể người Rhoyne thậm chí cũng đã giúp đỡ họ, nhưng cơn sóng dữ tợn này không thể nào ngăn được. Vì thế có khả năng người Andalos đã lựa chọn việc trốn đi hơn là đối mặt với một chế độ nô lệ không thể tránh khỏi với cuộc chinh phạt của người Valyria. Họ đã rút lui đến Đỉnh Rìu – những vùng đất nguyên thủy của họ – và khi ở đó cũng không bảo vệ được họ, họ lại rút xa về phía bắc và phía tây cho tới khi họ đến biển. Một vài người có lẽ đã từ bỏ tại nơi đây và đầu hàng số phận, và số khác có lẽ vẫn tiếp tục những kháng cự cuối cùng của họ, và rồi vô vàn những con thuyền được đóng và đã chèo đi băng qua biển hẹp với số lượng cực kỳ lớn để đến những vùng đất của Tiền nhân tại Westeros.

Người Valyria đã từ chối lời hứa của họ với người Andalos về việc cho phép thờ phụng Thất diện thần ở Essos, nhưng ở Westeros thì họ đã tự do. Nhuệ khí tăng cao bởi những xung đột và cuộc trốn chạy, những chiến binh người Andalos đã khắc hình ngôi sao bảy cánh trên cơ thể và thề bằng máu của mình và trước Thất diện thần rằng, họ sẽ không nghỉ ngơi cho tới khi họ đẽo gọt nơi đây thành những vương quốc tại Vùng đất hoàng hôn (Sunset Lands). Thành công đó của họ đã được người Vaes Dothrak đặt cho Westeros một cái tên mới: Rhaesh Andahli – Vùng đất của Người Andalos (Land of the Andals).

Những thất sĩ, những ca sĩ và những học giả đều đồng ý rằng nơi đầu tiên mà người Andalos đi tới là trên bán đảo Những ngón tay ở xứ Vale của Nhà Arryn. Khắc những ngôi sao bảy cánh trên những phiến đá lớn nhỏ ở khắp khu vực này – và rồi hành động này không còn được thực hiện nữa trong suốt quãng thời gian chinh phạt của người Andalos.

Quét qua Vale với lửa và kiếm, người Andalos bắt đầu cuộc chinh phạt Westeros của họ. Những vũ khí và áo giáp bằng sắt vượt trội hơn hẳn kim loại đồng mà những Tiền nhân vẫn sử dụng để chiến đấu, và nhiều Tiền nhân đã thiệt mạng trong cuộc chiến này. Nó là một cuộc chiến – hoặc vô cùng nhiều những cuộc chiến – có khả năng đã kéo dài nhiều thập kỷ. Cuối cùng một vài Tiền nhân đã khuất phục, như tôi đã chú ý từ đầu, vẫn có những gia tộc ở xứ Vale tuyên bố một cách tự hào về dòng dõi của họ bắt nguồn từ Tiền nhân, như gia tộc Redforts và Royces.

Những ca sĩ hát rong hát rằng người anh hùng Andalos, hiệp sĩ Artys Arryn đã cưỡi trên một con chim ưng để giết vua Griffon ở Giant’s Lance, từ đó thành lập dòng dõi những vị vua của Gia tộc Arryn. Tuy nhiên, câu chuyện này thật ngu xuẩn, một sự méo mó về những câu chuyện lịch sử có thật của gia tộc Arryns cùng với những truyền thuyết sau này của Kỷ nguyên những Anh hùng. Thay vào đó, chính Những Đại đế của Gia tộc Royce (High Kings of House Royce) mới là dòng dõi của những vị vua chứ không phải những vị vua Arryn.

Khi đã nắm chắc Vale trong tay, người Andalos chuyển sự chú ý của họ đến toàn bộ phần còn lại của Westeros và tràn quân tấn công qua Cổng Máu (Bloody Gate). Trong những cuộc chiến theo sau đó, những người phiêu lưu Andalos đã kiến thiết nên những vương quốc nhỏ từ những triều đại cổ xưa của Tiền nhân và chiến đấu với nhau thường xuyên như họ đã chiến đấu với những kẻ thù của họ.

Trong những cuộc chiến ở vùng Trident, như nhiều người kể rằng, bảy vị vua Andalos đã tham chiến cùng nhau để chống lại vị vua thật sự cuối cùng King of the Rivers and Hills, Tristifer Đệ tứ, người có tổ tiên từ Tiền nhân, và đánh bại vị vua đó ở trận đánh thứ 100, theo như những gì mà các ca sĩ hát rong kể lại. Người kế thừa của ông ta, Tristifer Đệ ngũ, đã chứng tỏ sự bất lực của mình trong việc bảo vệ cơ nghiệp của cha mình, và vì thế vương quốc đã sụp đổ dưới chân người Andalos.

Trong cùng kỷ nguyên này, một người Andalos, được ghi nhớ trong những truyền thuyết dưới cái tên Erreg Kẻ giết máu mủ, đã tìm thấy ngọn đồi vĩ đại ở High Heart. Ở đó, dưới sự bảo vệ của những vị vua Tiền nhân, những đứa con của rừng rậm đã trông nom những cây weirwoods đầy quyền năng được chạm khắc, bao xung quanh ngọn đồi này (31 cây, theo như ghi chép của Archmaester Laurent trong bản viết tay Old Places of the Trident). Khi những chiến binh của Erreg tìm kiếm để đốn hạ những cái cây, Tiền nhân được cho rằng đã chiến đấu bên cạnh Những đứa con, nhưng có lẽ lực lượng người Andalos quá hùng hậu nên mặc dù Những đứa con và Tiền nhân đã nỗ lực để bảo vệ những cái cây thần của họ, nhưng tất cả đều bị giết. Những người kể chuyện giờ đây đã xác nhận rằng những bóng ma của Những đứa con vẫn lởn vởn trên ngọn đồi đó hàng đêm. Đến tận ngày nay, những cư dân vùng Riverlands vẫn tránh xa vùng đất này.

Những bộ tộc của Dãy núi Mặt trăng rõ ràng là hậu duệ của Tiền nhân và vì họ không chịu quỳ gối trước người Andalos nên đã bị đẩy sâu vào trong núi sinh sống. Hơn nữa, có những điểm tương đồng trong phong tục của họ với phong tục của những người man tộc bên ngoài Bức tường như ăn cắp cô dâu, là một lũ cứng đầu khao khát tự mình cai trị những vùng đất và một số những điểm tương đồng khác, và việc những người man tộc là hậu duệ của Tiền nhân là điều không thể chối cãi

Như đã làm với Tiền nhân trước đây, thì người Andalos đã chứng tỏ Những đứa con còn lại là kẻ thù không đội trời chung của họ. Trong mắt họ, Những đứa con tôn thờ các vị thần kỳ lạ và có những phong tục kỳ lạ, và vì vậy người Andalos đã đẩy họ ra khỏi tất cả các khu rừng sâu mà Hiệp ước đã từng trao cho họ. Những đứa con lạc lõng lớn lên và suy yếu qua các năm, chúng thiếu đi bất kỳ lợi thế nào chúng từng có với Tiền nhân. Và điều mà Tiền nhân không bao giờ có thể thành công trong việc thực hiện việc xóa sổ Những đứa con hoàn toàn thì người Andalos đã làm được điều đó trong thời gian ngắn. Một số Những đứa con có thể là đã chạy trốn đến vùng Neck, nơi có sự an toàn nhờ vào những vùng đầm lầy và những hang động bí hiểm, nhưng kể cả khi họ đã làm thế, thì cũng không có dấu vết nào của họ còn sót lại. Có thể một số ít đã sống sót trên Isle of Faces, như một số người đã viết, dưới sự bảo vệ của những người màu xanh lá, những người mà người Andalos không bao giờ thành công trong việc tiêu diệt. Nhưng một lần nữa, không có bằng chứng chắc chắn nào được tìm thấy.

Và dù cho Những đứa con còn lại đã chạy trốn hay là chết, thì Tiền nhân đã thấy mình thua cuộc từ cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, mất vương quốc này đến vương quốc khác, trước những người xâm lược Andalos. Các cuộc chiến và chiến tranh là vô tận, nhưng cuối cùng tất cả các vương quốc phía nam đều sụp đổ. Với một số người vùng Vale, họ đã chịu phục tùng người Andalos, thậm chí bắt đầu niềm tin của mình vào Thất diện thần. Trong nhiều trường hợp, người Andalos đã lấy vợ và con gái của các vị vua bị đánh bại làm vợ, như một phương tiện để củng cố quyền cai trị của họ. Vì dù thế nào đi nữa, Tiền nhân vẫn có số lượng nhiều hơn rất nhiều những người Andalos và không thể đơn giản bị gạt sang một bên. Việc nhiều lâu đài phía nam vẫn còn có những cây thần với những cây weirwood được chạm khắc ở giữa thân cây được cho là nhờ các vị vua Andalos đầu tiên, những người đã chuyển từ chinh phục sang hợp nhất, mà theo cách đó để tránh bất kỳ xung đột nào xuất phát từ những đức tin khác nhau.

Ngay cả những người ở đảo sắt, những chiến binh hung dữ của biển cả, những người mà hẳn ý nghĩ đầu tiên của họ rằng, họ sẽ an toàn trên các hòn đảo của họ – cũng đã sụp đổ dưới cơn sóng chinh phục của người Andalos. Mặc dù phải mất một ngàn năm để người Andalos chuyển sự chú ý của họ sang Quần đảo Sắt, khi họ làm vậy, họ đã làm với sự phấn khích đã được khôi phục như xưa. Họ càn quét qua các hòn đảo, chấm dứt dòng dõi Urron Redhand, dòng dõi đã cai trị nơi đây bằng rìu và kiếm trong một ngàn năm.

Haereg viết rằng, ban đầu, các vị vua Andalos mới đã tìm cách ép buộc sự thờ phượng của Thất diện thần đối với cư dân quần đảo sắt, nhưng cư dân nơi đây sẽ không bao giờ đồng ý. Thay vào đó, những vị vua cho phép cả Thần Chết chìm và Thất diện thần cũng tồn tại. Như ở trên đất liền, người Andalos kết hôn với những người vợ và con gái của người đảo sắt và có con với họ. Nhưng ở trên đảo, Thất diện thần không bao giờ bén rễ; hơn nữa, nó đã không giữ vững ngay cả trong những gia đình có dòng máu Andalos. Cuối cùng, chỉ có Thần Chết chìm mới cai trị Quần đảo Sắt, và chỉ có một vài gia tộc nhớ đến Thất diện thần.

Chỉ riêng phương Bắc mới có thể ngăn cản cuộc xâm chiếm của người Andalos, nhờ vào những vùng đầm lầy không thể vượt qua của vùng Neck và phần còn lại của Moat Cailin cổ xưa. Số lượng quân đội Andalos đã bị tiêu diệt ở vùng Neck không kể siết, và vì vậy, Những vị vua Mùa đông đã giữ vững sự cai trị độc lập của họ trong nhiều thế kỷ.

9. Mười nghin con tàu

Những cuộc di cư cuối cùng vào Westeros xảy ra rất lâu sau khi Tiền nhân và người Andalos đến. Sau khi cuộc chiến với người Ghiscar kết thúc, những lãnh chúa rồng Valyria bắt đầu hướng sự chú ý của mình về phía Tây, sự phát triển của quyền lực người Valyria đã khiến cho đế chế Freehold và những thuộc địa của nó xuất hiện những xung đột với những người xứ Rhoyne.

Những nhánh phụ của sông Rhoyne, dòng sông vĩ đại nhất thế giới, vươn ra rất xa về phía Tây Essos. Cùng với những ngân hàng của họ thì dân cư và văn hóa của họ cũng phong phú và cổ xưa không kém gì Đế chế Old Ghis. Cư dân vùng Rhoyne trở nên giàu có vô cùng nhờ những nguồn lợi từ dòng sông, họ đặt tên dòng sông này là Đức Mẹ Rhoyne.

Dân đánh cá, thương nhân, các nhà trí thức, học giả và người làm thuê trong các xưởng gỗ, mỏ đá, mỏ kim loại cùng nhau gây dựng lên những thành phố và thị trấn thanh lịch, càng ngày càng kiêu sa hơn, suốt từ thượng nguồn đến cửa sông của dòng Rhoyne. Thành phố Ghoyan Drohe trên đồi Velvet, với những lùm cây và thác nước, Ny Sar, thành phố của những chiếc đài phun nước, nổi tiếng với những bài hát về nó, Ar Noy trên đỉnh Qhone với những tòa sảnh bằng đá xanh, Sar Male ở biên giới với những loài hoa, Sarhoy bao quanh bởi biển với những kênh đào và những khu vườn ngập mặn, và Chroyane, nơi vĩ đại nhất, những lễ hội được tổ chức ở Cung Điện Tình Yêu.

Các loại hình nghệ thuật và âm nhạc rất khởi sắc ở những thành phố quanh sông Rhoyne, và người ta nói rằng con người nơi đây cũng có những ma thuật của riêng mình, một dạng ma thuật của nước rất khác với những pháp sư của vùng Valyria vốn được sinh ra từ máu và lửa. Dù là được gắn kết với nhau bởi dòng máu, văn hóa và dòng sông nơi họ được sinh ra, các thành phố quanh sông Rhoyne mặt khác lại vô cùng độc lập, mỗi nơi đều có hoàng tử… hoặc là công chúa riêng, bởi vì theo truyền thống của vùng sông này, đàn ông và phụ nữ được đối xử công bằng.

Dù là được xây dựng bởi những con người ôn hòa, vùng Rhoyne có thể trở nên vô cùng đáng sợ nếu như họ bị chọc giận, rất nhiều những nhà chinh phục mạo nhận xứ Andalos đã nhận được bài học đầy khổ đau này. Những chiến binh vùng Rhoyne mặc những bộ giáp dát bạc, những chiếc mũ có hình đầu cá, cầm những mũi giáo dài và những chiếc khiên hình mai rùa nhận được sự kính trọng và sợ hãi bởi tất cả những kẻ đối đầu với họ trên chiến trận. Người ta kể rằng đích thân Đức Mẹ Rhoyne thì thầm vào tai những đứa con của mình về những mối nguy hại, rằng những hoàng từ vùng Rhoyne sở hữu những quyền năng lạ lùng và kỳ quái, rằng những phụ nữ vùng Rhoyne chiến đấu dữ dội không thua kém gì những người đàn ông, và rằng những thành phố của họ được bảo vệ bởi “những bức tường nước” sẽ dâng lên và nhấn chìm bất kỳ kẻ thù nào.

Vùng Rhoyne trải qua nhiều thế kỷ sống trong hòa bình, dù có rất nhiều những tộc người hung hãn sống trên những ngọn đồi và trong rừng quanh dòng sông Đức Mẹ Rhoyne, tất cả chúng đều biết rằng tốt nhất đừng có quấy rầy những cư dân vùng sông. Và bản thân dân cư vùng Rhoyne cũng không quá ham mê việc khai phá, dòng sông là nhà của họ, mẹ của họ, và thần thánh của họ, và rất ít người có ý muốn cư ngụ ở những nơi xa bài hát vĩnh cửu của dòng sông.

Những đoàn thám hiểm, hành hương hay thương nhân từ Freehold vùng Valyria bắt đầu mở rộng vượt ra khỏi Vùng Đất Của Mùa Hè Dài Lâu (the Lands of the Long Summer) hàng thế kỷ sau sự sụp đổ của Đế Chế Cổ Ghis, những hoàng tử vùng Rhoyne thu nhận họ trước tiên, và những thầy tu của họ tuyên bố rằng họ chào đón tất cả mọi người đến và cùng chia sẻ những phước lành của Đức Mẹ Rhoyne.

Khi những tiền đồn đầu tiên của người Valyria trở thành những thị trấn, rồi những thị trấn trở thành những thành phố, một số người Rhoyne bắt đầu nuối tiếc vì lòng hiếu khách của cha ông mình. Tình thương bắt đầu biến thành sự ác cảm, đặc biệt là ở những vùng hạ lưu, nơi thành phố cổ Sar Mell và thị trấn khép kín Volon Therys của người Valyria đối diện nhau dọc theo dòng sông, và ở bên bờ Biển Hạ, nơi thành phố tự do Volantis sớm cạnh tranh với thành phố cảng sầm uất Sarhoy, mỗi thành phố này đều kiểm soát 1 trong số 4 cửa sông của Đức Mẹ Rhoyne.

Những tranh chấp giữa những cư dân của các thành phố cạnh tranh nhau này trở nên ngày càng phổ biến hơn và thù hận hơn, cuối cùng sản sinh ra một cuộc chiến ngắn nhưng đẫm máu. Sar Mell và Volon Therys là những thành phố đầu tiên lâm chiến. Huyền thoại kể rằng đụng độ bắt đầu khi người Valyria bắt được và làm thịt một con rùa thuộc loài rùa khổng lồ mà người Rhoyne gọi là The Old Man of The River rất linh thiêng và được tôn thờ như là chồng của chính Đức Mẹ Rhoyne. Trận Chiến Rùa đầu tiên kéo dài không đến 1 con trăng. Sar Mell bị cướp bóc và thiêu rụi, nhưng chiến thắng đã đến khi những thủy pháp sư của Rhoyne triệu hồi quyền năng của dòng sông và nhấn chìm Volon Therys. Một nửa thành phố đã bị cuốn trôi, nếu như những câu chuyện là đáng tin.

Tuy nhiên, những cuộc chiến khác cũng diễn ra theo: Trận chiến giữa 3 hoàng tử, Trận chiến rùa lần thứ 2, Trận chiến ngư dân, Trận chiến muối, Trận chiến Rùa lần thứ 3, Trận chiến ở Hồ Mũi Dao, Trận chiến Gia Vị, và rất nhiều nữa, nhiều tới mức không thể đếm nổi. Rất nhiều thành phố, thị trấn bị thiêu rụi, bị nhấn chìm rồi lại được xây dựng lại. Hàng nghìn người bị giết và bị bắt làm nô lệ. Trong những xung đột này, phần thắng nghiêng về phía người Valyria nhiều hơn. Những hoàng tử vùng Rhoyne, cực kỳ tự hào về nền độc lập của mình, thường tự chiến đấu một mình, trong khi những thuộc địa của người Valyria luôn hỗ trợ lẫn nhau, và khi bị dồn ép quá, họ cầu cứu đến sức mạnh của chính đế chế Freehold. Cuốn History of the Rhoynish của Beldecar không công bằng lắm khi miêu tả về những xung đột đã kéo dài hơn 2 thế kỷ rưỡi này.

Những xung đột này đạt đến cực điểm vào khoảng 1000 năm trước ở Cuộc Chiến Gia Vị Lần 2, khi 3 lãnh chúa rồng nhập cuộc cùng với những người họ hàng của mình áp đảo, cướp bóc và phá hủy Sarhoy, thành phố cảng vĩ đại của người Rhoyne ở Biển Hạ. Những chiến binh của thành Sar Hoy bị thảm sát vô cùng dã man, con cái của họ bị bắt làm nô lệ, và thành phố tráng lệ của họ chìm trong biển lửa. Sau đó, người Volantis trải muối lên toàn bộ đám tàn tích để Sarhoy không bao giờ còn có thể phục hồi trở lại.

Cuộc phá hoại nổi tiếng một trong những thành phố giàu có và đẹp đẽ nhất của vùng Rhoyne, và việc bắt các nô lệ đã làm các hoàng tử còn lại của vùng Rhoyne bị sốc mà mất tinh thần. “Chúng ta sẽ bị bắt làm nô lệ hết, nếu chúng ta không đoàn kết lại để chấm dứt mối hiểm họa này”, Garin của thành Chroyane, người vĩ đại nhất tuyên bố. Hoàng tử chiến binh vĩ đại này kêu gọi các bằng hữu của mình gia nhập cùng anh ta để tạo ra một liên minh lớn, nhằm đánh đuổi tất cả những thành phố Valyria quanh dòng sông.

Chỉ duy nhất công chúa Nymeria của thành Ny Sar là phản đối. “Đây là cuộc chiến mà chúng ta không hề có hy vọng chiến thắng”, nàng cảnh báo, nhưng các hoàng tử khác la hét bắt nàng ngồi xuống, và cùng dâng thanh kiếm của mình thề phục vụ Garin. Ngay cả những chiến binh của Ny Sar cũng rất nóng lòng muốn chiến đấu, vì thế Nymeria chẳng còn lựa chọn nào khác và đành phải gia nhập liên minh.

Quân đội hùng mạnh nhất mà Essos từng được chứng kiến rất nhanh chóng tập hợp tại Chroyane, dưới sự chỉ huy của Hoàng tử Garin. Theo lời Beldecar, quân số của lực lượng này lên đến khoảng 250.000 người. Từ thượng nguồn cho tới các cửa sông Rhoyne, tất cả những người đàn ông trong độ tuổi chiến đầu đều xách gươm, cầm khiên lên và lên đường tới thành phố lễ hội để tham gia lực lượng này. Chừng nào họ còn ở gần bên dòng sông Rhoyne, hoàng tử tuyên bố, họ không phải sợ những con rồng từ Valyria, những thủy pháp sư sẽ bảo vệ họ khỏi lửa rồng từ Freehold.

Garin chia lực lượng khổng lồ của mình làm 3: một phần hành quân dọc bờ phía đông dòng sông, một phần dọc bờ phía Tây, trong khi một hạm đội thuyền khổng lồ đi trên sông giữa hai đội quân kia, quét sạch tất cả những chiến thuyền của kẻ thù trên sông. Từ Chroyne, Garin dẫn đội quân dũng mãnh của mình xuống hạ lưu, tiêu diệt từng ngôi làng, thị trấn, đồn trú trên đường đi và đập tan mọi kẻ chống đối.

Chàng thắng trận chiến đầu tiên ở Selhorys, áp đảo một đội quân Valyria 30.000 người và chiếm thành phố như một cơn bão. Valysar cũng chịu chung số phận. Đến Volon Therys, Garin đối mặt với một đội quân 100.000 người, 100 voi chiến và 3 lãnh chúa rồng. Chàng tiếp tục thắng thế ở đây, nhưng phải trả một cái giá đắt. Hàng nghìn người đã bị thiêu cháy, nhưng hàng nghìn người khác đã kịp ẩn nấp trong những vị trí cạn của dòng sông, trong khi các thủy pháp sư triệu hồi những vòi nước khổng lồ để đối phó với những con rồng của kẻ thù. Các cung thủ của phe Rhoyne đã bắn hạ được 2 con rồng, con thứ 3 bị thương và tháo chạy. Sau cùng, Đức Mẹ Rhoyne tràn lên cuồng nộ nuốt chửng cả Volon Therys. Kể từ đó, mọi người bắt đầu gọi chàng hoàng tử chiến thắng là Garin Vĩ Đại (Garin the Great), và người ta nói rằng ở Volantis, các lãnh chúa vĩ đại run rẩy trong sợ hãi khi quân đội chủ lực của Garin tới. Thay vì đối đầu với kẻ địch trên chiến trường, các lãnh chủa Volantis rút lui về phía sau những bức tường thành và cầu cứu đế chế Freehold.

Và rồi thì những con rồng cũng tới. Không phải là 3 như ngày hoàng tử Garin đối đầu ở Volon Therys, mà là 300, có khi hơn nữa, nếu như những câu chuyện kể lại là đáng tin. Đối đầu với những ngọn lửa kinh hoàng, người Rhoyne không thể trụ nổi. Hàng chục nghìn người bị thiêu sống trong khi những người khác tháo chạy ra dòng sông, hy vọng rằng sự bảo hộ của Đức Mẹ sông Rhoyne có thể bảo vệ họ khỏi những ngọn lửa rồng … và chết đuối ở đó. Một số tài liệu ghi chép lại khẳng định rằng những ngọn lửa nóng tới nỗi toàn bộ cả dòng sông bị đốt nóng và trở thành nước sôi. Garin Vĩ Đại bị bắt sống và bị ép phải chứng kiến người của mình chịu đựng sự trả thù. Nhưng những binh lính của chàng thì không được hưởng sự khoan dung như vậy. Người Volantis và những hậu duệ người Valyria xử chém toàn bộ họ, nhiều tới mức người ta kể lại rằng máu của họ nhuộm đỏ cả cảng Volantis tới ngút tầm mắt. Ngay sau đó những người chiến thắng tập hợp lực lượng và tấn công lên phía Bắc dọc theo dòng sông, nuốt gọn Sar Mell một cách tàn bạo trước khi tiến tới Chroyane, thành phố quê hương của Garin. Bị nhốt trong một cái cũi bằng vàng theo lệnh các lãnh chúa rồng, Garin bị giải về thành phố lễ hội để chứng kiến nó bị hủy diệt.

Xác chết chất thành đống dọc theo con sông Rhoyne

Ở Chroyane, cái cũi được treo lên trên những bức tường, để chàng hoàng tử có thể chứng kiến phụ nữ và trẻ em bị bắt làm nô lệ, những người vợ và con của những kẻ đã chết trong cuộc chiến can đảm và vô vọng của chàng…nhưng hoàng tử, người ta kể rằng, đã nguyền rủa những kẻ xâm lược, và cầu xin Đức Mẹ Rhoyne báo thù cho những đứa con của người. Và rồi, vào đúng đêm đó, dòng sông Rhoyne dâng nước lên với sự vũ bão chưa từng có. Một màn sương mù dày đầy khí độc buông xuống, và những kẻ chinh phục Valyria bắt đầu chết vì bệnh vảy xám. (Về điều này, ít nhất có những sự thật sau được kể lại: Nhiều thế kỷ sau, Lomas Longstrider đã viết về những di tích bị nhấn chìm ở Chroyane, nước và sương mù của nó bị nhiễm bẩn, và sự thật rằng những người du hành phương xa bị nhiễm bệnh vảy xám giờ đang cư ngụ trong di tích- một hiểm họa cho những kẻ du hành trên sông phía dưới những nhịp đổ nát của Cây cầu của những giấc mơ (Bridge of Dreams).

Phía thượng lưu của sông Rhoyne, ở Ny Sar, công chúa Nymeria lập tức nhận được tin tức về thất bại tan nát của Garin và về những người dân ở Chroyane và Sar Mell bị bắt làm nô lệ. Nàng thấy ngay rằng một số phận tương tự đang chờ đợi thành phố của chính nàng. Vì thế, nàng tập hợp mọi chiếc thuyền còn sót lại ở vùng sông Rhoyne, dù lớn hay nhỏ, và chở hết sức có thể những người phụ nữ, trẻ em (bởi vì hầu hết những người đàn ông ở độ tuổi chiến đấu đã đi theo Garin và chết). Nymeria dẫn đoàn thuyền tả tơi của mình xuôi theo dòng sông, đi qua những tàn tích, những thị trấn nghi ngút khói và những cánh đồng đầy xác chết, qua những vùng nước bị bóp nghẹt bởi khói và những xác chết trôi dạt. Để lẩn tránh Volantis và quân đội của nó, nàng chọn đi theo một con kênh cũ và tiến ra Biển Hạ nơi chỉ còn lại Sarhoy trụ vững.

Truyền thuyết kể lại rằng Nymeria đã dẫn 10.000 con tàu ra biển, tìm kiếm ngôi nhà mới cho người dân của mình ngoài tầm ảnh hưởng của Valyria và những lãnh chúa rồng. Beldecar lý luận rằng số liệu này đã bị thổi phồng quá nhiều, có lẽ là gấp 10 lần. Một số tài liệu khác cung cấp con số khác, tuy nhiên thực tế thì không có số liệu kiểm đếm chính xác tuyệt đối. Chúng ta chỉ có thể nói rằng đó là một đội rất nhiều tàu. Hầu hết là thuyền thủ công, thuyền nhỏ, tàu buôn, tàu đánh cá, xà lan, bè ngang, chở đầy phụ nữ và trẻ em. Chỉ có khoảng một phần mười là tàu biển chuyên đi xa bờ, theo như Beldecar khẳng định.

Cuộc hành hương của Nymeria rất dài và kinh khủng. Hơn một trăm thuyền đã bị đánh chìm ngay khi đội thuyền gặp phải cơn bão đầu tiên. Cũng tầm đó thuyền hoặc hơn quay đầu về vì sợ hãi, và bị bắt làm nô lệ ở bên ngoài Volantis. Nhiều người khác bị rớt lại phía sau, hoặc bị đánh dạt đi và không ai còn thấy nữa.

Công chúa Nymeria lãnh đạo 10 nghìn con tàu

Phần còn lại của đoàn thuyền lê lết qua Biển Hạ tới Quần Đảo Rắn (Basilisk Isles), họ dừng chân ở đây để trữ thêm nước sạch và lương thực, và lại đụng ngay vào ông vua cướp biển của vùng đảo Ax, Talon, và tộc người Howling Mountain, hai bộ tộc này tạm thời gác bỏ mâu thuẫn trong một thời gian đủ lâu để trút đao kiếm và lửa xuống đầu những người xứ Rhoyne, đốt cháy 2 chiếc thuyền và bắt hàng trăm người làm nô lệ. Sau đó thì lũ cướp biển đề nghị cho phép những người Rhoyne được định cư ở Quần đảo Toads, với điều kiện họ từ bỏ tất cả tàu thuyền và cống nộp hàng năm 30 trinh nữ cho mỗi ông vua.

Nymeria từ chối và một lần nữa dẫn đội thuyền của mình ra khơi, hy vọng tìm được nơi ẩn náu giữa những khu rừng vùng Sothoryos. Một số cư ngụ tại Mũi Rắn (Basilisk Point), một số bên cạnh những vùng biển xanh lấp lánh của vùng Zamoyos, giữa những bãi cát lầy, những con cá sấu, và những thân cây ngập nước mục ruỗng. Đích thân công chúa Nymeria ở lại với những con tàu tại Zamettar, một thuộc địa của đế chế Ghiscar đã bỏ hoang hàng nghìn năm, trong khi những người còn lại đi ngược sông tới những di tích khổng lồ vùng Yeen, nơi bị ám bởi lũ ghoul và bầy nhện.

Họ tìm thấy rất nhiều tài nguyên ở Sothoryos- vàng, đá quý, gỗ hiếm, da dê nhập khẩu, những hoa quả và gia vị kỳ lạ- nhưng những cư dân Rhoyne không sinh sôi được ở đó. Thời tiết nóng ẩm ủ rũ đè nén lên tinh thần họ, và những đầm lầy đầy ruồi muỗi làm lây lan hết dịch bệnh này đến dịch bệnh khác: cơn sốt xanh, dịch nhảy múa, bệnh máu sôi, bệnh đau mắt, nhiễm trùng. Trẻ em và người già đặc biệt dễ bị nhiễm những bệnh này. Thậm chí khuấy động nước sông cũng có thể gây tử vong, vì sông Zamoyos chứa đầy những loài cá ăn thịt người, và những loài sâu bọ nhỏ xíu đẻ trứng trong da thịt những người tới đây bơi lội. Hai trong số những thị trấn mới ở Mũi Rắn bị cướp bởi tụi nô lệ, cư dân ở đây bị giết hoặc bị bắt xích đi, trong khi Yeen phải hứng chịu những cuộc tấn công từ tụi ghoul từ những khu rừng sâu.

Trong khoảng hơn một năm, những người Rhoyne cố gắng tồn tại ở Sothoryos, cho tới ngày một chiếc thuyền từ Zamettar tới Yeen và phát hiện ra toàn bộ đàn ông, phụ nữ và trẻ em ở thành phố hoang phế này đã biến mất trong đêm. Sau đó Nymeria triệu tập dân của mình quay lại những chiếc tàu của họ và dong buồm ra khơi một lần nữa.

Trong ba năm tiếp theo, những người Rhoyne lang thang trên những vùng biển phía Nam, tìm kiếm một mái nhà mới. Ở Naath, Đảo Bướm, những người ôn hòa chào đón họ, nhưng vị thần linh bảo trợ cho vùng đất lạ lùng này bắt đầu trừng phạt những kẻ mới đến bằng một loại dịch bệnh chết người không tên, khiến họ lại phải quay trở về những con tàu của mình. Ở Quần đảo Mùa Hè, họ cư ngụ tại một ngọn núi hoang bên ngoài bờ đông của Walano, và rất nhanh chóng nơi này được biết đến với cái tên Đảo Phụ Nữ, nhưng mảnh đất đầy đá này rất khó để gieo trồng, và rất nhiều người đã chết đói. Khi đội thuyền lại một lần nữa ra khơi, một số người Rhoune đã rời bỏ Nymeria để theo một pháp sư tên là Druselka, người khẳng định rằng đã nghe thấy Đức Mẹ sông Rhoyne gọi những đứa con của người trở về… nhưng khi Dryselka và đoàn của mình trở về những thành phố cũ của họ, họ gặp ngay kẻ thù đang chờ sẵn, và ngay lập tức hầu hết bị săn đuổi, giết hại hoặc bắt làm nô lệ.

Những chiếc tàu rách nát, tả tơi còn lại của đội 10.000 tàu rong buồm về phía Tây cùng với Công chúa Nymeria. Lần này nàng tới được Westeros. Sau quãng thời gian quá dài lang thang, đội tàu của nàng thậm chí còn tàn tạ hơn cả thời điểm đầu tiên khi họ khởi hành từ Đức Mẹ Rhoyne. Đội tàu của nàng không đến được Dorne toàn vẹn. Thậm chí đến lúc này, có nhiều người xứ Rhoyne ở Stepstones đòi sở hữu tài sản riêng, khẳng định rằng họ là hậu duệ của những người bị đắm tàu. Những con tàu khác, bị hư hại bởi bão lốc, chỉ đến được Lys hoặc Tyrosh, thà chọn làm nô lệ còn hơn chết đuối. Những chiếc tàu còn lại đến được bãi biển xứ Dorne gần cửa sông Greenblood, cách những bức tường đá cổ vùng Sandship, lãnh địa của Nhà Martell không xa.

Những con người đói khát, cô độc, gầy gộc, Dorne ở thời này là một vùng đất nghèo khó, nơi những lãnh chúa hay gây gổ và những ông vua nhỏ lẻ gây chiến với nhau không ngừng trên từng con sông, con suối, giếng nước, và từng mảnh đất nhỏ phì nhiêu. Hầu hết những lãnh chúa vùng Dorne coi những người Rhoyne như những kẻ xâm chiếm không được chào đón, những kẻ xâm lược với những phong cách nước ngoài kỳ dị và những vị thần xa lạ, và tốt nhất là nên tống cổ bọn chúng về vùng biển nơi mà chúng xuất phát. Nhưng Mors Martell, lãnh chúa vùng Sandship, nhìn thấy ở những kẻ mới đến một cơ hội… và nếu như những ca sĩ là đáng tin, vị lãnh chúa này cũng đem lòng yêu Nymeria, nữ hoàng xinh đẹp và dũng mãnh đã dẫn dắt người của mình đi khắp thế giới để tìm kiếm tự do.

Người ta kể rằng, trong số những người tới Dorne cùng với Nymeria, tám mươi phần trăm là phụ nữ… nhưng có tới một phần tư là chiến binh, theo như truyền thống của người vùng Rhoyne, và kể cả những người không có khả năng chiến đấu cũng đã được rèn luyện trở nên rất mạnh mẽ sau những cuộc hành trình và những nỗ lực của họ. Thêm nữa, hàng nghìn người vốn mới chỉ là những cậu bé khi rời bỏ vùng Rhoyne, nay đã trở thành những người đàn ông, và đều đã cầm thương chiến đấu trong suốt hành trình nhiều năm lang thang của họ. Bằng việc nhập hội với những người mới đến, nhà Martell đã gia tăng lực lượng của mình lên gấp mười lần.

Khi Mors Martell cưới Nymeria làm vợ, hàng trăm hiệp sĩ, hầu cận và những người cao quý cũng cưới những phụ nữ xứ Rhoyne làm vợ, và rất nhiều những người đã kết hôn cũng lấy những người phụ nữ xứ Rhoyne làm tình nhân. Đây là cách mà hai tộc người gắn kết máu mủ với nhau. Mối quan hệ này làm giàu và tăng cường sức mạnh cho Nhà Martell và những đồng minh người Dorne của họ. Những người xứ Rhoyne mang theo sự giàu có đáng kể, những thợ thủ công, thợ rèn, thợ điêu khắc sở hữu những kĩ năng vượt xa hơn những người cũng làm công việc đó ở Westeros, và những thợ rèn của họ ngay lập tức chế tạo ra gươm, thương, áo giáp bằng da và thép mà không thợ rèn nào ở Westeros sánh kịp. Quan trọng hơn nữa, người ta kể rằng những phù thủy vùng Rhoyne biết những phép thuật bí mật có thể làm cho những dòng suối đã khô cạn chảy trở lại và làm những sa mạc nở hoa.

Để kỉ niệm mối quan hệ này, và để đảm bảo rằng người của mình sẽ không ra biển một lần nữa, Nymeria đốt tất cả những chiếc tàu của người Rhoyne. “Hành trình lang thang của chúng ta đã kết thúc rồi”, bà tuyên bố,” Chúng ta đã tìm được mái nhà mới cho mình, nơi đây chúng ta sinh sống và chết”

(Một số người Rhoyne cũng khóc thương tiếc cho những chiếc thuyền của họ, và thay vì đón nhận vùng đất mới, họ sống trôi nổi trên những vùng nước của dòng Greenblood, cố gắng tìm kiếm một hình bóng mờ nhạt của Đức Mẹ Rhoyne, và họ vẫn tiếp tục thờ phụng người. Họ vẫn tồn tại cho đến ngày này, được biết đến với cái tên Những đứa trẻ mồ côi của sông Greenblood).

Ngọn lửa thắp sáng rực cả bờ biển khi hàng trăm tấm gỗ cũ kỹ được ném vào lửa và cháy thành tro bụi; Trong ánh sáng của ngọn lửa, công chủa Nymeria tôn vinh Mors Martell là Hoàng tử của xứ Dorne, theo phong tục của người Rhoyne, công nhận sự thống trị của chàng đối với “những bãi cát đỏ và cát trắng, và tất cả những đất đai và dòng sông từ vùng núi cho tới tận biển lớn”.

Tuy nhiên, tuyên bố về quyền lực thì lúc nào cũng dễ dàng hơn là việc giành được nó. Theo sau đó là nhiều năm trời chiến tranh, khi nhà Martell và những đồng minh người Rhoyne tiêu diệt lần lượt từng vị vua nhỏ lẻ một. Không ít hơn 6 vị vua bị chinh phục đã bị xích và giải tới những bức tường bởi Nymeria và hoàng tử của bà, cho tới khi chỉ còn sót lại kẻ thù mạnh nhất: Yorick Yronwood, Dòng Máu Hoàng Gia, Đệ Ngũ, Lãnh chúa vùng Yronwood, Hộ thần vùng Đường Đá, Hiệp sĩ Giếng, Vua của vùng Redmarch, Vua của vùng Greenbelt, và Vua của xứ Dorne.

Trong suốt 9 năm, Mors Martell và các đồng minh (trong số đó có nhà Fowler vùng Skyreach, Nhà Toland vùng Ghost Hill, Nhà Dayne vùng Starfall và nhà Uller cùa vùng Hellholt) tranh đấu rất nhọc nhằn với Yronwood và các đồng minh của nó (người Jordayne vùng Tor, người Wyls vùng Stone Way, cùng với người Blackmonts, người Qorgyle, và rất nhiều tộc người khác), với vô số những cuộc chiến. Khi Mor Martell ngã xuống bởi lưỡi kiếm của Yorick Yronwood trong Cuộc chiến vùng Boneway lần thứ 3, công chúa Nymeria tiếp nhận quyền chỉ huy toàn bộ quân đội của chàng. Cần thêm hai năm chiến tranh nữa, nhưng cuối cùng thì Nymeria đã khiến Yorick Yronwood phải quỳ gối, và nàng cai trị từ đó tại Sunspear.

Dù cho nàng kết hôn thêm hai lần nữa (lần đầu tiên là với lãnh chúa già Uller vùng Hellholt và sau đó là với Hiệp sĩ Davos Dayne hoạt bát của vùng Starfall, Thanh Kiếm Ban Mai), Nymeria vẫn là người cai trị hợp pháp của xứ Dorne trong suốt gần 27 năm, những người chồng của bà chỉ đóng vai trò là cố vấn và liên minh. Bà sống sót qua hàng tá cuộc giao tranh, dập tắt hai cuộc phản loạn, đánh đuổi hai cuộc xâm lăng của Vua Bão Tố Durran Đệ Tam và một cuộc bởi Vua Greydon vùng Reach.

Khi cuối cùng bà qua đời, người lớn nhất trong số bốn người con gái của bà với Mors Martell là người kế vị, chứ không phải là người con trai của bà với Davos Dayne, và từ đó người xứ Dorne cũng tiếp nhận rất nhiều luật lệ và phong tục của những người vùng Rhoyne, dù cho những kí ức về Đức Mẹ Rhoyne và về 10.000 con tàu đã chìm vào truyền thuyết.

10. Ngày Tận thế của Đế chế Valyria

Cùng với việc những người Rhoyne bị hủy diệt, Valyria ngay lập tức thống trị toàn bộ nửa Tây của Essos, từ biển hẹp cho tới tận Vịnh Nô Lệ, và từ Biển Hạ tới Biển Rùng Mình. Nô lệ đổ về Freehold và ngay lập tức được đưa đến phía dưới rặng núi Mười bốn ngọn lửa để đào vàng bạc mà người Freehold rất ưa thích. Có lẽ để chuẩn bị cho công cuộc vượt qua biển hẹp, người Valyria cũng đã lập nên một tiền đồn trên một hòn đảo ở phía Tây mà sau này được biến đến với cái tên Dragonstone vào khoảng 200 năm trước sự kiện Ngày tận thế. Chẳng có vị vua nào sở hữu nó, và mặc dù các lãnh chúa địa phương vùng biển hẹp cũng có cố gắng kháng cự, nhưng sức mạnh của đế chế Valyria là quá lớn. Với những kĩ năng gia truyền của mình, người Valyria dựng lên tòa Citadel ở Dragonstone.

Hai thế kỷ trôi qua – hai thế kỷ mà loại thép Valyria quý báu bắt đầu nhỏ giọt xuất hiện ở Bảy Vương Quốc nhanh chóng hơn trước, nhưng cũng chưa đủ cho tất cả các lãnh chúa và các vị vua ham muốn có nó. Và mặc dù hình ảnh một lãnh chúa rồng bay cao phía trên Vịnh Nước Đen thì ai cũng đã thấy, nhưng điều này diễn ra ngày càng thường xuyên hơn theo thời gian. Người Valyria cảm thấy những tiền đồn của họ đã được an toàn, vì thế nên các lãnh chúa rồng tiếp tục những kế hoạch và mưu đồ của mình ở lục địa quê hương.

Và rồi, không ai ngờ tới, (có lẽ là ngoại trừ Aenar Targaryen và người phục vụ cũng là con gái của ông là Daenys Chiêm mộng), Tận thế đã đến với Valyria.

Tới ngày hôm nay vẫn không ai biết được rằng điều gì đã gây ra Ngày Tận Thế. Hầu hết đều nói rằng đó là một thảm họa tự nhiên, một vụ nổ khủng khiếp gây ra bởi sự phun trào của cùng lúc 14 đỉnh của dãy Mười bốn ngọn lửa. Một số giáo sĩ, kém thông thái hơn, khẳng định rằng người Valyria tự gây ra thảm họa cho mình do đức tin quá lai tạp của họ với hàng trăm vị thần và còn hơn thế nữa. Và trong sự thiếu đức tin này, họ đã đào bới quá sâu tới mức đã giải phóng ngọn lửa từ Bảy Địa Ngục ở Freehold. Một số học sĩ, bị ảnh hưởng bởi những nghiên cứu vụn vặt của Học sĩ Barth, tin rằng người Valyria đã sử dụng những phép thuật để kiềm chế ngọn lửa của Mười bốn ngọn lửa trong suốt hàng nghìn năm, khi mà lòng tham bất cẩn của họ trong việc chiếm hữu nô lệ và của cải đã đánh đổi giữa việc duy trì phép thuật này với việc bành trướng quyền lực, và rồi khi cuối cùng thì những phép thuật đó bắt đầy lung lay, thảm họa là không thể tránh khỏi.

Về điều này, có một vài người lý luận rằng nguyên nhân chính là do lời nguyền rủa của Garin Vĩ Đại cuối cùng cũng đã ứng nghiệm. Một số khác thì lại nói rằng, những pháp sư của thần R’hllor đã triệu hồi ngọn lửa của thần linh để thực hiện một vài nghi lễ hiến tế kỳ dị. Một số thì dung hòa giữa những yếu tố giả tưởng về ma thuật của người Valyria với hiện thực về tham vọng của các Gia tộc của người Valyria, đưa ra ý kiến rằng những vòng xoáy xung đột liên tiếp và đầy thủ đoạn giữa các Gia tộc đã dẫn đến việc rất nhiều những pháp sư danh tiếng đã bị ám sát, những pháp sư này chính là những người kéo dài và duy trì những nghi lễ có tác dụng trấn áp ngọn lửa của dãy Mười bốn ngọn lửa.

Điểm chung nhất mà tất cả đều thống nhất, rằng đó là thảm họa kinh hoàng nhất mà thế giới từng được chúng kiến. Đế chế Freehold hùng mạnh và cổ kính – quê hương của loài rồng và những pháp sư với những quyền năng vô địch – đã bị xé nát và phá hủy chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ. Lịch sử ghi lại rằng từng ngọn đồi trong phạm vi 500 dặm đã bị tách rời ra, khói, tro bụi phủ kín bầu trời và lửa thì nóng và hung bạo tới mức những con rồng bay trên cao cũng bị nuốt chửng và nhấn chìm. Những rãnh nứt khổng lồ xuất hiện dưới đất, nuốt trọn những cung điện, đền thờ và toàn bộ những thị trấn. Những cái hồ bị đốt sôi lên hoặc biến thành axit, những ngọn núi phát nổ, những đài phun nước bốc lửa bắn những tảng đá nóng chảy lên không trung cao cả ngàn feet, và những đám mây đổ mưa xuống toàn là kính rồng và máu đen của loài quỷ dữ. Tới tận phía bắc, mặt đất gãy vụn và tự sụp đổ, và một vùng biển giận dữ biến thành nước sôi.

Thành phố kiêu hãnh nhất thế giời đã biến mất trong chớp mắt, cả một đế chế huyền thoại biến mất chỉ trong một ngày. Vùng Đất Của Mùa Hạ vĩnh cửu – từng là nơi phì nhiêu nhất thế giới – bị thiêu đốt, bị nhấn chìm và bị tàn phá, và cái giá phải trả bằng máu vẫn không thể thống kê được hết trong cả thế kỷ sau đó.

Điều tiếp theo xảy đến là sự hỗn loạn. Các lãnh chúa rồng đã tụ tập hết ở Valyria theo thói quen của họ… ngoại trừ Aenar Targaryen, con cái và những con rồng của ông, đã di tản tới Dragonstone trước đó và thoát được khỏi Ngày tận thế. Một số ghi chép lại cũng có đề cập rằng cũng còn một số ít người sống sót … trong một khoảng thời gian ngắn. Người ta kể rằng một số lãnh chúa rồng Valyria ở Tyrosh và Lys đã thoát nạn, nhưng trong cơn biến động chính trị lớn ngay sau Ngày tận thế, họ và những con rồng bị giết bởi những cư dân của Các Thành Phố Tự trị. Tương tự như vậy, các lịch sử về vùng Qohor cũng đề cập rằng một vị lãnh chúa rồng ghé thăm, Aurion, đã gây dựng lực lượng tại các thuộc địa vùng Qohor rồi tự xưng mình là Hoàng đế đầu tiên của Valyria. Ông ta bay đi trên lưng con rồng đen khổng lồ của mình, cùng với 30.000 binh lính theo sau, để chiếm lấy những tàn dư còn sót lại của Valyria và tái gây dựng lại đế chế Freehold. Nhưng cả Aurion lẫn đội quân của ông ta đều mất tích không dấu vết.

Và thời đại của loài rồng ở Essos đã đến lúc kết thúc.

Volantis, nơi hùng mạnh nhất trong Các Thành Phố Tự Trị, nhanh chóng đặt sự kiểm soát lên các khu vực vùng ven của Valyria. Những đàn ông và phụ nữ mang trong mình dòng máu Valyria cao quý, dù cho không còn những con rồng, tiến hành chiến tranh với những thành phố khác. Những con hổ, những người ủng hộ cuộc chinh phục, đã dẫn Volantis vào một cuộc xung đột lớn với Các Thành Phố Tự trị khác. Thời gian đầu họ đạt được những thành tựu lớn, những hạm đội tàu và quân đội của họ kiểm soát Lys và Myr và tiếp tục tiến quân về phía Nam sông Rhoyne. Chỉ đến khi họ tiến tới và tấn công Tyrosh, thì đế chế mới nảy mầm của họ sụp đổ. Bị uy hiếp bởi sức ép từ Volantis, Pentos gia nhập cùng với Tyrosh để kháng cự., Myr và Lys nổi dậy, và Những Lãnh Chúa Biển vùng Braavos cung cấp một hạm đội 100 tàu chiến để hỗ trợ Lys. Mặt khác, Vua Bão Tố của Westeros, Argilac Kiêu Ngạo, dẫn một đội quân tới Vùng Đất Tranh Chấp, do được hứa hẹn bằng vàng và vinh quang, đánh bai một đội quân Volantis và chiếm lại được Myr.

Chính do những cuộc xung đột này, và những tranh giành vẫn còn tồn tại cho tới tận ngày nay ở Vùng Đất Tranh Chấp, những hiểm họa từ Đoàn Quân Tự Do bắt đầu xuất hiện và lớn dần. Lúc đầu, đội quân đánh thuê này chỉ đơn thuần là chiến đấu cho bất cứ ai trả tiền cho họ. Nhưng có những nguồn tài liệu nói rằng, bất cứ khi nào hòa bình đe dọa họ, những thủ lĩnh của Đội Quân Tự Do sẽ phát động những cuộc chiến để nuôi sống chính họ, và làm giàu bởi những chiến lợi phẩm.

Cuối cùng thì, ngay cả Nhà chinh phục tương lai, Aegon Targaryen thời trẻ, cũng tham gia vào cuộc chiến này. Dù cho tổ tiên của ông luôn hướng về phía Đông, nhưng từ rất sớm sự chú ý của ông đã chuyển hướng về phía Tây. Tuy vậy, khi Pentos và Tyrosh tiếp cận ông, mời ông tham gia vào một liên minh khổng lồ chống lại Volantis, ông đã lắng nghe họ. Và vì những lí do mà đến ngày này cũng không ai hiểu được, ông chọn việc đưa ra câu trả lời …bằng hành động. Cưỡi trên lưng Nỗi Kinh Hoàng Đen, người ta kể rằng ông bay về phía Đông, gặp gỡ Hoàng tử của Pentos và những giáo sĩ của Thành Phố Tự trị, và từ đây cưỡi Balerion tới Lys vừa kịp lúc để thiêu cháy cả một hạm đội tàu của Volantis đang chuẩn bị tấn công Thành Phố Tự trị này.

Volantis tiếp tục đón nhận những thất bại tiếp theo – ở Hồ Mũi Dao, khi những con thuyền bốc cháy của Qohor và Norvos phá hủy phần lớn hạm đội tàu Volantis đang kiểm soát vùng Rhoyne, và ở phía Đông khi bộ tộc Vaes Dothraki bắt đầu tràn ra từ biển Vaes Dothraki, biến những thành phố và thị trấn thành những tàn tích trên con đường trừng phạt người Volantis đã bị suy yếu. Cuối cùng, bầy voi, một nhóm người Volantis yêu thích hòa bình, vốn rất được ưa thích bởi những người thương nhân và lái buôn giàu có đã phải chịu sự tổn thất lớn trong chiến tranh, đã chiếm lấy quyền lực của bầy hổ, những kẻ thích chinh phục, và kết thúc cuộc chiến.

Một con rồng bị thiêu cháy vào Ngày tận thế

Còn về phần Aegon Targaryen, ngay sau vai trò của ông trong việc đánh bại người Vonlantis, người ta kể rằng ông mất hết hứng thú với những sự kiện ở phía Đông. Tin rằng sự thống trị của người Volantis đã kết thúc, ông bay về Dragonstone. Và giờ đây, khi không còn bị xao nhãng bởi những cuộc chiến ở phía Đông nữa, ông bắt đầu chuyển sự chú ý về phía Tây.

Đế chế Freehold của Valyria và những vương quốc của nó đều đã bị hủy diệt trong Ngày Tận Thế, nhưng những bán đảo lẻ tẻ của nó vẫn còn tồn tại. Những câu chuyện kỳ lạ về những nơi đó vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay, về những loài quỷ dữ đang cư ngụ ở Biển Khói nơi mà dãy núi Mười bốn ngọn lửa từng ngự trị. Thực tế thì, con đường nối từ Volantis tới Vịnh Nô Lệ được biết đến như là “con đường quỷ dữ”, và tất cả những người du hành cẩn thận tốt nhất là nên tránh nó. Và những người đã dám mạo hiểm đến Biển Khói đều không thể trở về, giống như cái cách mà những người Volantis đã học được bài học này trong suốt Thế Kỷ Máu khi mà cả một hạm đội được cử đến để chiếm bán đảo này đã biến mất hoàn toàn. Có những tin đồn lạ lùng rằng vẫn có những người sống giữa những tàn tích của Valyria và những thành phố liền kề đó Oros và Tyria. Nhưng những người khác vẫn đang tranh cãi về điều này, và nói rằng Tận thế vẫn còn đang nắm giữ Valyria.Tuy nhiên, một vài thành phố cách xa trung tâm Valyria vẫn có người trú ngụ, những nơi được khai phá hoặc bị chinh phục bởi đế chế Freehold. Nơi kinh dị nhất là Mantarys, ở nơi đây người ta kể rằng những người đàn ông được sinh ra bị vặn xoắn và có hình thù rất quái dị, một số người cho rằng nguyên nhân của việc này là vì những thành phố này ở gần con đường quỷ dữ. Danh tiếng về Tolos, và thành phố Elyria nằm trên đảo bớt nguy hiểm hơn, và cũng bớt đáng chú ý hơn, bởi vì họ cũng giống như các thành phố khác của người Ghiscar tại Vịnh Nô Lệ tránh liên quan dưới bất kỳ hình thức nào trong việc chiếm lại vùng trung tâm Valyria.

Aegon Chinh phục trên lưng con rồng Balerion, Nỗi kinh hoàng đen

Nguồn: BapStory

Bình luận
Loading...

https://chudaihd.com/ mom has passionate sex with her grown son.
www.alledepornos.com
sex videos