click here to find out more http://www.pornsocket.cc
sexyvideoshd.net
www.anybunnyvideos.com runaway girls.

[Dota 2] Các phe phái trong Dota 2

0 553

Abyssal Horde (Bầy Quỷ Vực Thẳm)

Thông tin chung:

– Abyssal Horde là một phe phái của ác quỷ, cư ngụ tại thành phố ngầm Aziyog dưới lòng đất. Chúng được lãnh đạo bởi Vrogros biệt hiệu Underlord.

Văn hoá:

– Abyssal Horde bắt nô lệ và sử dụng xương của họ để xây dựng các bức tường của thành phố. Trong hàng ngũ của chúng có những thợ rèn bậc thầy quái dị, những người đã rèn nên một lưỡi kiếm khổng lồ cho Underlord. Những ai ko may gặp phải Abyssal Horde chắc chắn phải đối mặt với sự hủy diệt hoặc bị nô lệ. Những nô lệ đã chết bị ném vào lò, có thể như là nhiên liệu cho các lò rèn.

Cuộc xâm lăng:

– Không hài lòng với những vùng đất hạn hẹp trong lãnh thổ dưới lòng đất của mình, Vrogros đã đặt mục tiêu là chinh phục thêm lãnh địa phía trên mặt đất. Mở một cổng Dark Rift (Kẽ nứt tối tăm), hắn ta điều quân đoàn của Abyssal Horde đi qua cổng để thăm dò các quốc gia ở trên, và đã biết rõ họ có thể bị đánh bại. Trong khi toàn bộ lực lượng sẵn sàng cho cuộc xâm lược chính thức còn ở bên dưới, thì Vrogros đã tự mình bước lên trên mặt đất, chuẩn bị mở một kẽ nứt khác sẽ đưa đội quân chinh phạt của mình lên theo. Hành động của bầy quỷ hiển nhiên là bí mật hoặc được bưng bít, vì vậy thế giới trên mặt đất chưa bao giờ biết tới hoặc được tiên tri cho đến khi chúng xuất hiện.

Vrogros xuất hiện tại Stonehall, nơi lực lượng ác quỷ của hắn đụng độ với Tresdin và Bronze Legion (Quân đoàn đồng)

Các mối quan hệ:

Pudge có thể đã từng ăn phải một thành viên của Abyssal Horde.

Ascended Ones (Các Đấng Đăng Quang)

Thông tin chung:

– Các Ascended Ones là những người bảo vệ được chọn của Ashkavor. Thông qua một nghi lễ thiêng liêng, họ thiết lập mối liên kết giữa mình và tất cả người dân Ashkavorian, từ đó có thể rút ra sức mạnh to lớn từ sự đoàn kết các linh hồn của họ để bảo vệ Ashkavor.

Nghi lễ:

– Người thanh niên được chọn để đảm nhận đạo bào Ascended (Đăng Quang) sẽ được đào tạo từ khi còn trẻ. Để đảm nhận nó họ phải hoàn thành một nghi lễ thiêng liêng. Những người thầy của họ đã đặt ra một giới hạn nghiêm ngặt trong việc tăng cường hiệu quả của nghi lễ, để đề phòng nguy cơ gây nguy hiểm cho dân chúng Ashkavorian. Vào ngày Đăng Quang, người thanh niên đó được đưa đến trung tâm thành phố, nơi có một phiến cổ thạch lớn nằm trong ngôi đền trung tâm. Tại đây, anh ta thực hiện một câu thần chú ràng buộc, viết lên phiến cổ thạch bằng một cây bút lông rất lớn được nhúng vào những lọ mực ma thuật. Bằng cách này, người Ascended mới đã liên kết với tất cả những người Ashkavorian khác, ràng buộc linh hồn người dân của anh ta với chính mình trong một mối liên kết to lớn được chia sẻ với những Ascended Ones khác.

Sự bại hoại:

Grimstroke, một người Ashkavorian xảo quyệt và đầy tham vọng, là người cuối cùng của những Ascended Ones. Quá ham muốn sức mạnh, hắn phớt lờ những lời cảnh báo của các thầy về việc khuếch đại ma thuật của nghi lễ, bí mật trộn những giọt ichor bí ẩn vào những lọ mực của mình. Vào ngày Đăng Quang của mình, hắn nhúng cây bút lông vào lọ mực ô uế và thấy mình bị nhấn chìm bởi vật chất đen nào đó. Những dòng mực chảy ra từ cây bút lông, chiếm lấy cơ thể hắn ta, và trong cơn tuyệt vọng, hắn ta lại đẩy chất này vào mối liên kết mà hắn ta mới tạo ra với người dân của mình. Hành động này đã khiến dòng mực bại hoại lây lan sang tất cả những người Ashkavorian khác, biến họ thành vong hồn mờ ảo mang dáng dấp của bản thân lúc trước.

– Chỉ các Ascended Ones thế hệ trước là có thể sống sót sau vụ việc đó, mặc dù sức mạnh của họ bị biến dạng rất nhiều bởi sự bại hoại. Grimstroke đang tìm cách sử dụng sức mạnh của các Ancients để chống lại họ, để hắn có thể kiểm soát tất cả mọi người dân Ashkavorian. Vì lý do này, các Ascended Ones còn sống đã chạy trốn khỏi Grimstroke, cùng với hy vọng một ngày nào đó sẽ khôi phục lại muôn dân của họ.

Các mối quan hệ:

– Lanaya (Templar Assassin) đã từng gặp Ascended Ones khác trước khi gặp Grimstroke.

Ash Legion (Quân đoàn tro tàn)

– Ash Legion là một nhóm các chiến binh thiện chiến ưa thích đánh nhau. Họ chiến đấu với giáo và khiên. Ash Legion đã thách đấu với thần Mars và thua cuộc, nhưng giờ đây lại sẵn sàng phục vụ như những người lính xác sống cho Mars, người thường triệu hồi họ để tạo thành một đấu trường hình tròn. Không rõ liệu Ash Legion có liên quan đến Bronze Legion (Quân đoàn đồng của Legion Commander) hay không.

Bear Clan (Bộ tộc Gấu)

Thông tin chung:

– Bear Clan là một tổ chức của các tu sĩ và các chiến binh, được cai trị bởi các lãnh chúa trên cao. Đó là một trong một số các gia tộc tổ tiên, và có mối liên hệ với Serpent Clan (Bộ tộc Mãng Xà) và Dragon Clan (Bộ tộc Rồng). Trải qua nhiều thiên niên kỷ, bộ tộc Gấu cuối cùng đã tuyệt chủng. Thành viên duy nhất còn sống là Sylla (Lone Druid), người đã nhận được Hạt giống từ những linh hồn tự nhiên. Hạt giống đó làm trẻ hóa ông ta theo định kỳ.

Giáo lý và niềm tin:

– Các thành viên của Bear Clan được biết đến với sự khôn ngoan và ý thức về công lý, cũng như sự hòa hợp với thiên nhiên. Họ tìm cách “khôi phục thế giới” thông qua các biện pháp chưa được nói rõ.
– Các thành viên của bộ tộc được dạy rằng mỗi mặt trời mọc là một món quà, và chỉ định ra một tu sĩ để chào đón bình minh mỗi ngày.

Phong tục:

– Các tu sĩ của Bear Clan sống trong rừng, tách biệt với xã hội. Vì điều này, họ không sử dụng tiền. Họ mang theo liềm, một biểu tượng và là công cụ nghi lễ của bộ tộc họ.
– Để chứng minh sức mạnh của mình, mỗi chiến binh phải mang đứa con mới sinh của mình trên một chiếc gùi đeo trên vai trong mười một ngày. Vào ngày thứ mười hai, một mảnh áo giáp vai được trao cho chiến binh như một bằng chứng về sức mạnh của họ.

Ngoài lề:

– Bear Clan tương tự như những tu sĩ người Celtic, họ cũng mang những cái liềm vàng để thu hoạch hoa màu.

Bladebreaker Order (Giáo hội Bẻ gãy lưỡi kiếm)

– Bladebreaker Order là một tổ chức tin tưởng vào việc phá hủy vũ khí của các kẻ địch, thay vì giết chết chúng. Các thành viên được trang bị áo giáp và dao găm có khe rãnh, để giữ chặt những lưỡi kiếm đang chém tới. Một số người cũng đeo quả đối trọng vào đuôi. Màu sắc của họ là vàng, tím và xanh.
Riki có thể là thành viên của giáo hội này, và họ có thể liên quan tới House of Tahlin (Hoàng tộc Tahlin của Riki)

Bloodmist (Huyết Sương)

– Bloodmist là một đội quân nổi dậy thế chỗ đội quân Red Mist (Sương Đỏ) đã thất thủ. Họ thường dạy các chiến binh của mình nhắm vào bụng kẻ địch mà đánh.

Bonehunters (Thợ săn xương cốt)

– Bonehunters là một phe phái phục vụ cho ác thần Flayed Twins mà Bloodseeker thờ phụng. Họ lùng sục khắp vùng đất khô cằn phía tây Xhacatocatl để kiếm những con thú hiến tế cho các vị thần của họ. Họ dùng răng và xương những có thú đó để trang trí, làm vũ khí và làm áo giáp cho mình. Họ sử dụng những vũ khí kiểu này khiến họ như đã trở lại thời nguyên thủy trước khi có sắt thép. Dù lượng máu họ thu thập được ít ỏi hơn so với lượng máu người khác thu được ở vùng núi nhưng họ vẫn nổi tiếng về sự hung ác của mình.

Boreal Watch (Đội canh phòng phương Bắc)

– Boreal Watch, còn được gọi là Tundra Walkers (Lãnh Nguyên Bộ Hành) là một phe phái ở tận cực bắc. Họ đội mũ trùm đầu và áo giáp được rèn bởi những người Northen Drow, và tự trang bị những mũi tên được gắn lông của loài chim Arctic Arcochs. Drow Ranger là một thành viên của Boreal Watch.

Bronze Legion (Quân Đoàn Đồng)

Thông tin chung:

– Bronze Legion là một trong những sư đoàn quân của Stonehall. Nó có một danh tiếng đáng sợ, và chỉ huy của nó là Tresdin (Legion Commander). Màu sắc của Bronze Legion là đỏ và vàng.

Trận Roseleaf:

– Được lãnh đạo bởi Tresdin, Bronze Legion đã cố gắng kìm chân đội quân Red Mist (Sương đỏ) tại Roseleaf. Thông tin chi tiết rất khan hiếm, chỉ có những hé lộ rằng Tresdin đã đưa ra những quyết định tồi tệ và có thể đã khởi xướng cuộc chiến, dẫn đến thảm họa cho Bronze Legion. Sau trận chiến, lá cờ Bullsnake Flag (lá cờ sắn đầu bò) được Mireska (DW) tìm thấy tại nơi đó, có thể quân kỳ của quân đoàn.

Bị tiêu diệt:

– Khi Stonehall bị tấn công bởi Underlord và đạo quân Abyssal Horde (bầy quỷ vực thẳm) của hắn, Bronze Legion là sư đoàn duy nhất đủ gần để đến viện trợ cho thành phố. Mặc dù Tresdin đã đẩy lùi được bầy quỷ xâm lược, nhưng Bronze Legion phần lớn đã bị tiêu diệt trong trận chiến.

Chiseled Guard (Đội vệ binh chạm trổ)

– Chiseled Guard là một phe phái cổ xưa và đã bị lãng quên, các thành viên của nó đã qua đời từ lâu. Người ta chẳng biết gì về họ, ngoại trừ việc họ được trang bị áo giáp và vũ khí bằng đá cực kỳ nặng. Sven đã tìm thấy một bộ áo giáp như vậy và mặc nó vào một số dịp.
– Xét theo các trang bị khác của Sven, Chiseled Guard có thể là một chi nhánh đã bị mất của dòng Vigil Knights.

Claddish Navy (Hải quân xứ Cladd)

Thông tin chung:

– Claddish Navy là một hạm đội hùng mạnh hoạt động trong vùng biển của đảo quốc Cladd. Họ được lãnh đạo bởi đô đốc Kunkka, người được giao nhiệm vụ bảo vệ quê hương. Màu sắc của Claddish Navy là xanh và vàng. Các thủy thủ Claddish được trang bị đao và súng ngắn cò đá lửa. Những chiếc tàu được các khẩu đội pháo điều khiển và có một người thuyền trưởng đặc biệt đội một chiếc mũ màu mận chỉ huy. Các cựu chiến binh xuất sắc được trao một cái ấn danh dự làm theo hình con chim ưng.

Bị tiêu diệt:

– Trong trận chiến tại Trembling Isle (Hòn đảo rung động), Claddish Navy đã đối đầu với Demons of the Cataract (Bọn quỷ xứ Cataract). Đội hải quân đã có sự giúp đỡ của các linh hồn tổ tiên được triệu tập bởi các Suicide-Mages (Pháp sư Tự sát). Tuy nhiên, cả hai hạm đội đều bị thần Maelrawn của Tidehunter tiêu diệt, chỉ còn lại một con tàu ma quái vẫn được Kunkka chỉ huy. Tidehunter sau đó tình cờ vấp phải hạm đội bị chìm dưới biển và đã bẻ lấy cột buồm của chiếc soái hạm làm vũ khí.

Conclave Of The Brine (Mật Viện Nước Mặn)

– Conclave of the Brine là một tổ chức của phái Meranths, bao gồm tộc Slithereen và tộc Naga.
– Với sự giúp đỡ của Slithereen Guard (Đội vệ binh Slithereen), Mật viện này đã tham gia vào Battle of Stonefish Gate (trận chiến Thạch Ngư Môn) chống lại một kẻ thù nào đó.

Dark Moon Horde (Bè lũ U Nguyệt)

– Dark Moon Horde là một phe phái thù địch với nữ thần mặt trăng Selemene. Bằng cách tấn công nữ thần và ngôi đền của cô, chúng tìm cách làm suy yếu sức mạnh của cô và gây ra biến cố Dark Moon. Chúng bị Dark Moon Order (Giáo hội U Nguyệt) chống trả, đó là một giáo phái tôn thờ và bảo vệ Selemene. Chúng có thể làm bại hoại và phá hỏng sức mạnh của Selemene. Trong một cuộc tấn công vào Temple of Mene (Đền thờ Selemene), chúng đã dùng phép thuật bí truyền để khiến những người bảo vệ ngôi đền ngủ thiếp đi. Tuy nhiên, trước khi chúng có thể phá hủy được điện thờ, năm anh hùng tình nguyện đã trả lời sự kêu gọi của Selemene và đánh bại chúng.

Dark Moon Order (Giáo hội U Nguyệt)

Thông tin chung:

– Dark Moon Order là một tập hợp các chiến binh trung thành với nữ thần mặt trăng Selemene. Họ cư trú trong Nightsilver Woods (Dạ Bạc U Lâm), nơi họ thực thi mệnh lệnh của nữ thần và bảo vệ thế giới khỏi biến cố Dark Moon cũng như những kẻ gây ra nó – bọn Dark Moon Horde (Bè lũ U Nguyệt).

Thành viên:

– Giáo hội bao gồm nhiều thành viên từ tất cả các tầng lớp trong xã hội. Nông dân, trẻ mồ côi, tội phạm… đều có trong hàng ngũ của họ, cũng như cả các học giả, quan chức và các sứ quân. Một khi họ đã tham gia hội thì quá khứ của họ đều được rũ bỏ và tất cả cùng nhau tôn thờ Selemene.
– Đội mũ trùm kín đầu, hội Dark Moon tiếp cận những người mới được Selemene chọn, và đề nghị họ gia nhập. Những người từ chối bị buộc phải rời khỏi Nightsilver Woods, và không bao giờ được quay trở lại.
Luna, đã từng đến bìa rừng của Nightsilver Woods, và phải đối mặt với một thử nghiệm được đặt ra bởi Selemene. Đối mặt với một con vật họ mèo lớn, cô lao ra và đuổi theo con thú đến một ngọn đồi dưới ánh trăng, nơi nó đã giật lấy con dao găm rỉ sét từ tay cô. Đây được coi là một thử thách xem Luna có phù hợp với hội không, và Dark Moon đã sớm tiếp cận cô cũng như đề nghị cô tham gia hàng ngũ của họ. Luna chấp nhận, từ bỏ quá khứ và trở thành anh hùng mới của Selemene với biệt hiệu là Moon Rider.

Dark Reef Dozen (Ám Tiêu Thập Nhị)

Thông tin chung:

– Dark Reef Dozen là một nhóm tù nhân đã cố gắng trốn thoát khỏi nhà tù Dark Reef. Dù có kế hoạch và nỗ lực nhưng mười thành viên trong số mười hai người đã chết khi cố tẩu thoát, hai người còn lại đã bị bắt và đưa trở về Dark Reef, nơi họ bị chặt đầu để răn đe cho các tù nhân khác.

Kẻ thứ mười ba:

– Lợi dụng sự hỗn loạn, Slark đã có thể thoát khỏi Dark Reef, và cũng là tù nhân duy nhất từng thoát khỏi nơi ấy. Sau khi trốn thoát, hắn đến vùng phía nam Shadeshore, nơi hắn vẫn cư ngụ cho tới ngày nay. Slark nói bóng gió rằng Dark Reef Dozen là một nhóm “những kẻ thất bại to mồm”, và do đó hắn ta thích làm việc đơn độc hơn.

Deep Ones (Những Kẻ Biển Sâu)

– Deep Ones là một phe phái chịu trách nhiệm bảo vệ Deep Vault (Kho Báu Biển Sâu), nơi chứa đựng kho báu khổng lồ của các thành phố chìm vốn từng ở cao trên núi. Slardar là thành viên nổi bật nhất của hội, được phái đi trinh sát và săn lùng những kẻ sẽ ăn trộm kho báu. Không biết rõ được liệu phe này chỉ cho Slithereen và Naga gia nhập hay còn cho cả các chủng tộc khác nữa.
– Có một đơn vị vệ binh tinh nhuệ bảo vệ Deep Ones từng được dẫn dắt bởi Slithice (Naga Siren), là những người bảo vệ một kho báu tại Crey. Slithice đã bị Deep Ones trục xuất sau khi phát hiện ra rằng một chén thánh đã bị lấy trộm khỏi kho, và chỉ khi tìm lại được nó thì cô mới có thể trở lại.
– Các thành viên phản bội Deep Ones bị đem đến nhà tù Dark Reef.

Demons Of The Cataract (Lũ Quỷ Xứ Cataract)

– Demons Of The Cataract là một phe phái ác quỷ được gây dựng để xâm lược các vùng đất của con người, đặc biệt là xứ Cladd. Cư ngụ tại xứ Cataract hoặc xung quanh đó, chúng bắt đầu một loạt các cuộc tấn công càng về sau càng táo tợn nhằm vào đảo quốc Cladd. Đối đầu với Claddish Navy (Hải quân xứ Cladd) hùng mạnh, Hạm đội Quỷ dữ đã đụng độ với hạm đội của đô đốc Kunkka tại Trembling Isle (Hòn đảo rung động), nơi đó chúng bị bao vây bởi các linh hồn tổ tiên của xứ Cladd, được triệu tập bởi các Suicide-Mages (Pháp Sư Tự Sát). Tuy nhiên, giữa lúc trận chiến đang cam go, Tidehunter đã triệu hồi vị thần vực thẳm Maelrawn nhấn chìm cả hai phe với một trận bão dữ dội.

– Hạm đội quỷ được nhắc đến với việc sử dụng các tàu chiến “ăn thịt”, mặc dù không tìm thấy được mô tả cụ thể nào nữa. Sau trận chiến, Kunkka có một chiếc áo choàng được làm từ da của một con quỷ xứ Cataract.

Dezun Order (Giáo Hội Dezun)

– Dezun Order là một hiệp hội gồm các thầy tu và các chiến binh. Thầy tu nổi tiếng nhất là Dazzle trẻ tuổi, và chiến binh nổi tiếng nhất là Huskar hung dữ. Họ dạy nhiều thứ bao gồm ma thuật chữa trị, cũng như việc giao tiếp với xứ Nothl Realm. Với một lá bùa đơn giản, các thầy tu Dezun có thể kích thích Sức sống Nội tâm của các sinh vật, giúp chữa lành cả những vết thương lớn.

– Giáo hội tiến hành các nghi thức cổ xưa để đưa con người vĩnh viễn chu du vào Nothl Realm, mặc dù người ta vẫn có thể quay lại trước khi các nghi thức kết thúc. Vào một dịp nọ, Dazzle đã đưa được Huskar trở về từ Nothl Realm, cứu anh ta khỏi đó bằng một loạt các câu thần chú. Nguồn nguyên liệu cần thiết để vào được Nothl Realm được bảo vệ nghiêm ngặt bởi Dezun Order và chỉ một vài thành viên là biết về nó.

– Các thầy tu của hội tin rằng chỉ có họ mới vào được xứ Nothl Realm, cho đến khi phát hiện ra một con bướm trong rừng Fellstrath có khả năng hút năng lượng trực tiếp từ Nothl Realm.

Dhreg Cult (Tôn Giáo Dhreg)

– Dhreg Cult là một phe phái tu hành một giáo điều bí ẩn và gần như không thể hiểu được, có thể là xuất phát từ một số nhà nguyện của xứ Claszureme. Nó dường như được biểu trưng bởi màu xanh lá cây. Darkterror (Faceless Void) là một người đã nắm vững giáo lý của nó, và đã xé rách các tài liệu của nó bằng móng vuốt. Sau khi hiểu được giáo điều, Darkterror đã mọc những chiếc gai xanh dọc sống lưng.

Dragon Clan (Bộ Tộc Rồng)

– Dragon Clan là một trong một số các gia tộc tổ tiên, các gia tộc khác là Bear Clan (Bộ tộc Gấu) và Serpent Clan (Bộ tộc Mãng Xà). Không có thêm thông tin gì về đức tin và phong tục của bộ tộc này. Theo Sylla (Lone Druid), Davion (Dragon Knight) là một thành viên của Dragon Clan, mặc dù anh ta có thể không biết điều đó.

Flameguard (Hoả Vệ Binh)

– Flameguard là một hội của dòng Vigil Knights, trong đó là những tay kiếm đặc biệt thiện chiến. Đóng quân ở Inner Colonnade (Rặng cây bên trong), công việc của họ là bảo vệ Holy Flame (Ngọn lửa thánh) bằng mọi giá. Sự trung thành của họ ko thể bị lay động, Flameguard được coi là hiện thân của sự nghĩa hiệp. Họ thường luyện một phong cách chiến đấu đặc biệt với trường kiếm hai tay.

– Bộ giáp của họ được sơn cùng màu xanh lam của Holy Flame và mỗi thành viên đều sử dụng một thanh trọng kiếm. Con dấu của hội được đóng trên áo choàng của họ, với một vòng tròn tượng trưng cho Inner Colonnade và một hình tam giác tượng trưng cho Holy Flame. Flameguard được chỉ huy bởi các tướng quân, những người mặc áo giáp và đội mũ sắt khác biệt.

Frost Brigade (Lữ Đoàn Băng Giá)

– Frost Brigade là một lực lượng quân sự, có khả năng nằm ở phía bắc, gần The Barrier (Dãy núi Hàng Rào). Chẳng biết thêm được điều gì về họ ngoại trừ việc có một nhóm binh lính của Frost Brigade đã từng bị Tusk đánh bại.

Frosted Winds Tribe (Bộ Lạc Băng Phong)

– Frosted Winds Tribe là bộ lạc được biết đến với việc Kardel Sharpeye biệt hiệu Sniper từng tiếp xúc với họ. Họ có thể là một bộ tộc người Keen. Họ chế tạo áo giáp bằng xương và vẽ lên chúng các ký hiệu của nghi lễ. Bộ lạc này săn loài Triple-Tailed Howling Wolf (Sói ba đuôi) và làm áo choàng từ bộ da của chúng.

Frostiron Tribe (Bộ Lạc Băng Thiết)

Thông tin chung:

– Frostiron Tribe là một bộ lạc sống gần Northern Sea (Biển Bắc). Họ được mô tả là một dân tộc đáng tự hào với một lịch sử lâu đời, nhưng tương đối xa lạ với phần thế giới bên ngoài.

Chế tạo:

– Bộ lạc này đặc biệt lão luyện trong nghề rèn, chế tạo mũ sắt và rìu thép. Họ cũng sử dụng những viên ngọc bích băng giá của xứ Icewrack (Băng Vụn) để chế tạo những vật dụng và đồ trang sức. Những viên ngọc bích được coi là biểu tượng cho quyết tâm lạnh lùng của bộ lạc.

– Dệt và may cũng là một phần của văn hóa của Frostiron Tribe, họ sản xuất các loại vải bền và ấm, có trọng lượng rất nhẹ.

Các mối quan hệ:

– Ymir (Tusk) đến thăm bộ lạc này thường xuyên trong mùa đông. Bộ lạc rất thân anh ta, và đã tặng anh một bộ áo giáp mới. Rylai cũng đã từng đến thăm bộ lạc, và cũng sở hữu những chiếc áo choàng hay những viên pha lê được họ chế tác tặng cô ấy.

Ngoài lề:

– Các trang bị mà Frostiron Tribe rèn cho Tusk giống với các trang bị của văn hóa Viking.

House Of Ambry (Gia Tộc Ambry)

– House of Ambry là một dòng họ quý tộc và là gia tộc lớn nhất trong các lãnh chúa ở vương quốc Slom. Nó được lãnh đạo bởi Lord Ambry (Lãnh Chúa Ambry). Họ đã đưa ra một số yêu sách đối với hoàng gia, cũng như trong số họ có các tướng lĩnh quý tộc, cho thấy rằng họ nắm trong tay các lực lượng quân sự mạnh.

– Khi vị vua cuối cùng của Slom trở nên quá bại hoại, House of Ambry đã điều sáu ngàn tinh binh đánh vào kinh đô, nhưng đã thất bại, dẫn đến cái gọi là Cuộc thanh trừng những người phản đạo . Tức giận vì sự phản bội, nhà vua đã ra lệnh lôi cổ Lord Ambry đến trước mặt ông ta và yêu cầu các thầy phù thủy nguyền rủa Banehallow (Lycan) – con trai của Lord Ambry trở thành ma sói, với ý định khiến cho anh cắn chết cha mình. Nhưng thay vì làm vậy, Banehallow đã trốn thoát trong hình dạng chó sói, trong khi Lord Ambry cuối cùng đã bị chính nhà vua chém chết. Toàn bộ huyết thống của gia tộc Ambry đã bị xử tử bởi sắc lệnh của hoàng gia, khiến Banehallow trở thành thành viên cuối cùng còn sống.

– Sau sự sụp đổ của Gia tộc, toàn bộ gia tài điền sản của Ambry đã bị cướp bóc hết.

House Of Tahlin (Hoàng Gia Tahlin)

– House of Tahlin là một vương triều vĩ đại cai trị một vương quốc chưa rõ tên. Họ được bảo vệ bởi đội vệ binh Tahlin Watch. Biểu tượng của hoàng gia là những con dao găm của tổ tiên. Các thành viên cao cấp của hoàng gia có dấu hiệu đặc trưng là những cặp sừng mảnh dẻ hoặc dày dặn, và những chiếc đuôi mềm dày lông.

– Vương triều này sau đó đã bị lật đổ trong bạo lực và Riki là hoàng tử cuối cùng còn sót lại của hoàng gia. Riki giờ vẫn còn giữ chiếc vương miện bị hư hại của nữ hoàng mẹ mình. Trước khi sụp đổ, những người hầu của hoàng gia đã lén lấy một số con dao găm có giá trị.

Japer Circle (Hiệp Hội Thạch Anh)

– Jasper Circle là một tổ chức chuyên hoạt động bất hợp pháp. Họ thực hiện những hành động tội phạm của mình với nguyên tắc riêng, mang lại cho họ một phong thái đáng tôn trọng.

– Lorlin Lasan và Riki có thể đều là thành viên của tổ chức này, cả hai đều là sát thủ. Mireska (Dark Willow) từng học hỏi và làm việc với Lasan trong Jasper Circle, nhưng cô quyết định không tham gia vì không muốn trở thành một “cô gái sai vặt”.

– Trước đây, Meepo đã có quan hệ gì đó với Jasper Circle và dường như anh nợ họ một khoản nợ lớn chưa trả. Vì điều này, Lasan và Jasper Circle đang truy lùng anh ta để thanh toán.

Juggernauts (Sức Mạnh Tàn Khốc)

Thông tin chung:

– Juggernauts là một tầng lớp kiếm sĩ đến từ Isle of Masks (Hòn Đảo Mặt Nạ). Họ coi trọng danh dự và sự tôn trọng, họ luyện một môn kiếm đạo truyền thống. Yurnero là Juggernaut cuối cùng, anh luôn mang thanh katana bên người.

Ngoài lề:

– Tầng lớp Juggernaut, cùng với Isle of Masks, tương tự như tầng lớp samurai của Nhật Bản thời phong kiến.

Kha-Ren

– Kha-Ren là một phe phái có Traxex là thành viên. Ngoài ra người ta không biết thêm được điều gì về nó.

Knights of the Fold (Hiệp Sĩ Của Con Chiên)

– Knights of the Fold là một giáo hội quân nhân. Đức tin của họ là một vị thần tên là Obelis, người mà họ coi là “Thượng Đế đích thực”, họ cải đạo cho những người khác một cách mãnh liệt (và bạo lực) để tham gia vào sự nghiệp của họ. Họ được coi là kẻ thù truyền kiếp của giáo hội Aeol Drias.

– Chen là một thành viên của hội. Anh đã phải đối mặt với sự cải đạo tàn bạo như thế khi còn trẻ. Giờ được dẫn dắt bởi sự cuồng tín, anh lại đi cải đạo cho những người ngoại giáo bằng phương pháp tương tự.

– Grimstroke nói bóng gió rằng giáo hội này toàn là kẻ bịp bợm, bởi vì sự cuồng tín vô lý của họ và cách cải đạo quá đẫm máu

Radiant (Rực Rỡ)

– Radiant là một phe trong dota 2. Nó được mô tả với chủ đề tươi sáng, hoà hợp thiên nhiên. Nửa bản đồ game bên trái phía dưới là thuộc Radiant.

– Radiant là một trong các viên đá Nemesis Stones, một thế lực xung khắc hoàn toàn với Dire.

– Radiant được Zet (Arc Warden) biết đến với cái tên là Radinthul. Ban đầu hắn ta giữ Dire và Radiant trong sự kiểm soát của mình, nhưng đã mất kiểm soát sau khi Mad Moon bị phá vỡ.

– Quặng Radiant ore có thể tìm thấy ở những vùng đất mà Radiant kiểm soát. Nó là một khoáng chất phát sáng, ánh xanh với các đặc tính ma thuật của lòng nhân từ, đôi khi được sử dụng để chế tạo vũ khí và công cụ.

Dire (Tàn khốc)

– Dire là một phe trong dota 2. Nó được mô tả với chủ đề tăm tối, u ám. Nửa bản đồ game bên phải phía trên là thuộc Dire.

– Dire là một trong các viên đá Nemesis Stones, một thế lực xung khắc hoàn toàn với Radiant.

– Dire được Zet (AW) gọi là Diruulth. Ban đầu hắn ta giữ Dire và Radiant trong tầm kiểm soát, nhưng đã mất kiểm soát sau khi Mad Moon bị phá hủy.

– Phe Dire làm khuếch trương sự bại hoại.

– Ánh sáng từ mặt trời và mặt trăng luôn chống lại thế lực của Dire.

Earthshaker đối địch với phe Dire, anh ta mang theo một vật tổ chứa đầy ánh sáng để xua đuổi sự bại hoại của Dire.

– Direstone từng được dùng để làm nên thanh Demon Edge.

House Avernus (Gia tộc Avernus)

Thông tin chung:

– Gia tộc Avernus là một gia đình quý tộc. Họ là những người bảo vệ vùng đất và truyền thống của họ, trong đó quan trọng nhất là Suối thánh Avernus (Font of Avernus) huyền bí. Khi được sinh ra, các hậu duệ của gia tộc được tắm trong màn sương màu đen của Suối thánh, ban cho họ một mối liên hệ bẩm sinh với năng lượng huyền bí của vùng đất. Nền giáo dục của họ chú trọng vào việc đào tạo quân sự, để họ có thể lãnh đạo quân đội của gia tộc bảo vệ vùng đất tổ tiên của mình. Có cả một tầng lớp linh mục chuyên giám sát các vấn đề liên quan đến Suối thánh. Gia tộc Avernus gieo rắc những lời nguyền lên kẻ thù, làm chậm chuyển động của chúng và giúp cho những người truy đuổi chúng được nhanh hơn.

– Vị chúa tể hiện tại của gia tộc là Abaddon, người có mối liên hệ sâu sắc với Suối thánh, đã cho anh ta sức mạnh vượt lên trên cả sự sống và cái chết, vượt xa bất kỳ vị chúa tể nào trước đó.

Tam Đại Bảo Kiếm:

Gia tộc Avernus có 3 thanh bảo kiếm huyền thoại. Nhưng chỉ mới có hai thanh được biết tới đó là:
• Mistbreaker. (Kẻ phá sương mù)
• Thanh thứ 2 có thể là Darkstar the Mistforged (Ngôi Sao Đen – Đúc Nên Sương) mặc dù nó không được nói rõ ràng.

Darkbrew Family (Dòng họ Darkbrew)

– Dòng họ Darkbrew là một dòng họ của tộc Keen nổi tiếng về sự sùng kính đối với môn hoá học (Chymistry). Thành viên nổi bật nhất của nó là Razzil Darkbrew biệt hiệu Alchemist, người quay lưng với truyền thống của gia đình để thử sức mình với việc biến mọi thứ thành vàng bằng thuật giả kim. Dòng họ này có vẻ hoạt động như một tổ chức tội phạm, với những người bảo kê “thu tiền lãi”.

Monks of Turstarkuri (Những Tu Sĩ Của Turstarkuri)

Thông tin chung:

– Những tu sĩ của Turstarkuri là một phái tu khổ hạnh thiền định chuyên sâu, họ ở tại tu viện cao trên núi tại Turstarkuri và nghe theo những lời dạy của Inai. Vì mối quan hệ của họ với Inai, các nhà sư có thể liên quan đến Hidden Temple (Ẩn tự – ngôi đền ẩn dật)

Tu hành:

– Họ xa lánh các vị thần và ma thuật, thay vào đó họ tin vào hòa bình và chủ nghĩa thực dụng. Thiền định trên những tấm đệm lụa, các nhà sư uống trà và nước tầm ma, cũng như nghiên cứu những cuộn kinh giáo lý của Turstarkuri. Người ta biết rất ít về những bí mật của họ, có lưu truyền rằng các kỹ thuật của họ liên quan đến việc khiến ma thuật phản lại người thi triển chúng và những người tu hành dường như có tầm nhìn siêu nhiên thông qua một “con mắt của tâm trí”

– Khi Inai xuất thế từ Hidden Temple, ông nói rằng các nhà sư đã hiểu sai lời dạy của ông và bị chính sự điên rồ của họ nuốt chửng.

Sự sụp đổ:

– Khi các quân đoàn của Dead God (Thần Tử Thi) đã xâm lược hết các vương quốc bên dưới những ngọn núi, các nhà sư vẫn ngồi thiền định, tin rằng những kẻ xâm lược chỉ là những ma chướng được gửi đến để làm lung lạc họ. Chỉ sau nửa tháng, họ đã bị chúng sát hại ngay tại chỗ, và thân xác của họ đã bị dựng dậy để gia nhập hàng ngũ của những kẻ xâm lược. Chỉ có Anti-Mage, một môn đồ trẻ tuổi của Turstarkuri, đã trốn thoát được với một vài cuộn kinh giá trị của các tu sĩ.

Ngoài lề:

– Các tu sĩ của Turstarkuri có khả năng là được dựa trên các tu sĩ Tây Tạng, những người cũng ngồi trên đệm lụa và uống trà tầm ma.

Highsand Nomads (Dân du mục Highsand)

– Dân du mục Highsand là một bộ lạc. Các thành viên mặc trang phục cổ cao, áo giáp lưới và mang theo kiếm cong. Những người mới gia nhập thì trên đầu thường để một kiểu tóc ngắn, đơn giản. Anti-Mage là một trong những người như vậy, mặc dù mối quan hệ của anh ta với những người du mục là gì vẫn chưa được biết rõ.

Korumite

– Korumite là một nhóm các học giả và tu sĩ đã bị lãng quên từ lâu, những người này nghiên cứu cả võ thuật và phép thuật. Mặc dù vậy, họ rất khiêm tốn và không dám liều để tìm hiểu cách sử dụng phép thuật của mình sao cho hữu ích. Hầu như không ai còn nhớ đến Korumite nữa ngoại trừ Inai (Void Spirit), ông thấy rằng họ xứng đáng được tôn trọng. Ngôi đền của ông được xây dựng theo một thiết kế của Korumite.

– Carl biệt hiệu Invoker cũng là một trong số ít những người còn nhớ Korumite, và thậm chí còn nhớ rõ nhiều câu thần chú của họ.

Kuur-Ishiminari

– Kuur-Ishiminari là một nhóm thợ thủ công và thợ đá, chuyên tạo ra vũ khí bằng ngọc bích từ nhiều thế hệ trước. Những con gargoyles ngọc bích và những linh hồn vệ binh luôn canh gác bảo vệ cho nhóm thợ này.
– Juggernaut sở hữu một thanh kiếm ngọc bích từng được làm ra bởi nhóm thợ này.

Marrowfell Hunters (Hội thợ săn Marrowfell)

– Marrowfell Hunters là một phe phái bí ẩn. Họ có thể là một bộ tộc Nhân mã. Bradwarden (Centaur) quen biết họ. Donte Panlin cũng vậy, anh rất ấn tượng với cung cách chiến đấu dữ tợn của họ.

Meranths

Thông tin chung:

– Meranths, còn được gọi là Mer, là tên gọi chung những cư dân của biển, bao gồm Slithereen, Naga, Levianths và những tộc khác. Những người Meranth đã tản ra di cư khắp nơi, họ là những bộ lạc liên tục xảy ra chiến tranh trên lãnh thổ của mình. Nền chính trị của Meranth rất phức tạp và không rõ ràng đối với thế giới trên mặt nước và trên cạn, mặc dù họ vẫn duy trì các hiệp ước với các quốc gia của con người.

– Sven mang một nửa dòng máu Meranth, vì mẹ anh là một “Pallid Meranth” (Meranth xanh). Không rõ anh được kế thừa gì từ sự khác biệt này, nhưng theo như lời của các Vigil Knights hé lộ thì đây là một “chủng tộc hoang dã” chưa được phát hiện. Với vai trò nuôi dưỡng của Sven, chủng tộc mẹ của anh ta có thể là cư dân làm chủ vùng Shadeshore Ruins (Di tích bờ biển bóng đêm).

Nền văn hoá:

– Tín ngưỡng của Meranth là thờ phụng mặt trăng và các ngôi sao để tìm kiếm tri thức và sự dẫn lối.
– Những tên tội phạm Meranth bị giam trong nhà tù Dark Reef.

Mono Militis

– Mono Militis là một hội của dòng Vigil Knights, họ được giao nhiệm vụ săn lùng các thành viên đã rời bỏ những lời giáo huấn của điều luật Vigil. Họ được biết đến với những chiếc mũ sắt kỳ lạ cản trở tầm nhìn tự nhiên của người đội. Nhưng thay vào đó, chiếc mũ sử dụng những viên đá quý mắt mèo để làm tăng tầm nhìn thông qua các biện pháp ma thuật. Đá quý mắt mèo cũng được sử dụng làm con dấu của hội này.

Nivan Gallants

Thông tin chung:

– Nivan Gallants (gọi tắt là Gallants) là một tổ chức gồm những người đàn ông và phụ nữ cống hiến cả cuộc đời cho kiếm thuật, thích lãng mạn và phiêu lưu. Trung thành với một bộ luật của danh dự và công lý, Gallants thực hiện các cuộc chiến chống lại những tên bạo chúa và ko bao giờ làm việc bất lương. Các thành viên của tổ chức dường như đều thuộc một chủng tộc giống tê tê. Được gia nhập tổ chức đã là một kỳ công không nhỏ, và những người mới đều được đào tạo thêm về võ thuật. Cạnh bãi huấn luyện đầy hình nộm gỗ và dụng cụ là trường học và nhà thờ của họ.

– Theo chủ nghĩa khoái lạc và thích vui vẻ, Gallants đắm mình trong men rượu và men tình, họ rất thân thiết với nhau và luôn có sự thi đua giữa các thành viên. Lòng danh dự mách bảo họ ko bao giờ chịu ràng buộc và cúi đầu, cũng như lòng nhân từ đối với những người yếu thế, trẻ em hay người tàn tật. Họ thích đấu tay đôi để phân cao thấp đúng sai. Sau chiến thắng, họ thường mở tiệc ăn mừng và chúc tụng những hành động nghĩa khí của họ.

– Phương châm của Nivan Gallants là “Một cuộc đời phiêu lưu là cuộc đời duy nhất đáng sống”. Vũ khí ưa thích của họ là kiếm mỏng và súng hỏa mai.

Các chiến công:

– Gallants đối đầu với những kẻ áp bức, và tiến hành cuộc chiến chống lại những kẻ như vua Sylak. Trong cuộc chiến đó, tổ chức đã đánh nhau với bọn hoả thuật sư của nhà vua và không ai trong số những người cứu Donte Panlin (Pangolier) trẻ tuổi là còn sống sót. Người thầy Etienne Swiftguard của anh đã ngã xuống trong trận chiến, nhưng trước đó đã kịp trao cho Donte khẩu súng của ông, thứ mà Donte vẫn sử dụng cho đến ngày nay.
– Với hầu hết các khía cạnh khác, họ thực hiện các nghĩa cử của họ một cách cởi mở, và tận hưởng sự nổi tiếng đi kèm chiến công vang dội của mình. Tuy nhiên, Gallants đôi khi hoạt động bí mật, đeo mặt nạ vì mục đích che dấu các nhiệm vụ và chính bản thân.
– Bên cạnh những tên bạo chúa, Gallants còn chiến đấu và tiêu diệt lũ ác quỷ, cũng như các nguy hiểm bất cứ nơi nào họ đi qua.

Các mối quan hệ:

– Nivan Gallant có mối quan hệ hữu hảo với Order of the Oyo (Giáo hội Oyo của Brew), có lẽ vì họ đều yêu thích rượu.
– Pudge đã từng ăn thịt một thành viên của Gallants, người đã thề rằng anh em của mình sẽ trả thù cho anh ta. Đến giờ vẫn chưa có ai trả thù được.

Các thành viên:
– Donte Panlin biệt hiệu Pangolier.
– Etienne Swiftguard.

Order of Cyprin (Giáo hội Cyprin)

Thông tin chung:

– Order of Cyprin là một phe phái cổ xưa gồm các thành viên tộc Slithereen và những cư dân dưới đáy biển khác. Một số người xuất thân từ đội Slithereen Guard. Chỉ những người nổi bật trong chiến trận mới được vào giáo hội, được làm thành viên của hội cũng là một trong những vinh hạnh lớn nhất. Conclave of the Brine (Mật Viện Nước Mặn) có khả năng liên quan đến các hoạt động của giáo hội.

– Giáo hội này đã chiến đấu tại Trận chiến Stonefish Gate (Thạch Ngư Môn), nơi Slithice (Naga) cũng có mặt, và sau đó được nhận vào hàng ngũ của hội vì lòng dũng cảm vượt trội của cô.

Ngoài lề:
– Cyprinids là một họ cá bao gồm cá chép và cá vàng

Order of Ra’hul (Hội Ra’hul)

– Order of Ra’hul là một tổ chức đúc nên sợi xích bị nguyền rủa dùng để trói buộc Balanar biệt hiệu Night Stalker. Sợi xích đã khuất phục được sức mạnh cổ xưa của hắn, nhưng cuối cùng Balanar đã thoát khỏi nó khi thời kỳ “tối tăm” tan biến. Không còn gì khác về hội này được biết thêm nữa.

Order of the Oyo (Giáo hội Oyo)

Thông tin chung:

– Order of the Oyo là một giáo phái tôn thờ việc giao tiếp với cõi linh hồn thông qua uống rượu. Bản chất chính xác về mối liên hệ của họ với Oyo vẫn chưa được làm rõ. Đồ uống của họ được pha chế từ mạch nha và hoa bia, các thành viên tham gia vào nghi thức của sự phê pha thần thánh dành cả ngày để chiêm ngưỡng nghệ thuật và vẻ đẹp của thiên nhiên. Giáo hội tin rằng có một sự chia rẽ cổ xưa giữa các linh hồn và các xứ sở vật chất, sự chia rẽ đó chỉ có thể được hợp nhất bằng cách nghĩ về một sự giác ngộ duy nhất. Họ cũng tin rằng các vấn đề sẽ được giải quyết tốt nhất bằng cách uống rượu thật nhiều.

Phong tục:
– Cánh tay cầm kiếm của những người học việc trẻ tuổi trong giáo hội được quấn vải để tượng trưng cho cam kết của họ đối với các bậc tiền nhân. Những bộ áo giáp được chế tạo bởi giáo hội đôi khi được làm từ các thùng rượu cổ xưa còn sót lại.

Bậc Thầy Ủ Rượu:

– Thành viên vinh dự nhất của giáo hội được trao danh hiệu Brewmaster (Bậc Thầy Ủ Rượu). Danh hiệu này có được thông qua thi đấu trong một nghi thức say rượu, đôi khi kéo dài nhiều ngày. Brewmaster hiện tại là Mangix, người đã có danh hiệu này sau khi dành được chiến thắng qua chín ngày chiến đấu liên tục với chủ nhân trước đó của nó. Theo truyền thống, Mangix đã được trao tặng Flail of the Great Elder (Đại Lão Thiết Lĩnh) cùng với danh hiệu mới của mình. Cũng như trước đây, giáo hội đã phái Brewmaster mới của họ đi du hành khắp các vùng đất để tìm kiếm sự giác ngộ, và để nghĩ về sự giác ngộ đó sẽ hợp nhất các cõi bị chia rẽ. Brewmaster mang theo một thùng đầy rượu, và một cây thiết lĩnh để hỗ trợ anh ta trong hành trình của mình. Brewmaster coi trọng sự cân bằng, có lẽ đó cũng là niềm tin của toàn bộ giáo hội.

Các mối quan hệ:
– Nivan Gallant có mối quan hệ hữu hảo với Order of the Oyo, có lẽ vì họ đều yêu thích rượu.

Pangolin Guild (Bang hội Tê Tê)

– Pangolin Guild là một hội sát thủ. Họ mang theo móc và dao phay nặng để chặt bay đầu con mồi trong một đòn duy nhất. Để bảo vệ, họ mặc áo giáp vảy, hiệu quả như áo giáp phiến nhưng nhẹ hơn nhiều. Nâu và vàng là màu của Pangolin Guild. Tương tự như vậy, áo giáp có màu nhạt để ngụy trang.
– Gondar (Bounty Hunter) là một thành viên của bang hội này.

Qaldin Assassins (Nhóm Sát Thủ Qaldin)

Thông tin chung:

– Qaldin Assassins là một tổ chức xuất xứ từ vương quốc Qaldin. Họ là những người hay ẩn mình, rất ít người có liên lạc với họ. Nhóm này tự sản xuất vũ khí, những lưỡi kiếm đen của họ được cân bằng hoàn hảo và cực kỳ sắc bén. Trong những dịp hiếm hoi, người ngoài có thể đặt làm vũ khí và việc sở hữu một bộ vũ khí của họ được coi là dấu hiệu của một thợ săn tiền thưởng xuất sắc. Gondar sở hữu một bộ vũ khí như vậy, và có thể có một số mối quan hệ với Qaldin Assassins.

Ngoài lề:
– Nhóm sát thủ Qaldin giống với các sát thủ ở các nước Hồi giáo thời trung cổ.

Red Guard of Ogdaroon (Hồng Vệ Binh của Ogdaroon)

– Red Guard of Ogdaroon là một phe phái đã lụi tàn. Axe sở hữu cây rìu Red Guard cuối cùng của họ.

Red Mist (Sương Đỏ – Hồng Sương)

Thông tin chung:

– Red Mist là một đội quân Oglodi, được biết đến với cuộc xâm lược Thousand Tarns (Ngàn Con Nhạn Biển). Binh lính của họ được dạy để nhè vào cổ mà chém, và những kẻ hèn nhát sẽ bị cạo tóc trong nhục nhã. Trong quân đội Red Mist có một Reaper (đao phủ), một nhân vật có uy chịu trách nhiệm xử tử những kẻ đào ngũ. Bên cạnh chiến đấu, Red Mist cũng có thể làm thợ rèn, mỗi binh lính đều có trách nhiệm rèn kiếm và khiên của riêng mình.

– Axe là thành viên của Red Mist, hắn leo lên cấp bậc cao bằng cách loại bỏ các đối thủ, cho đến khi người lính duy nhất còn lại chính là hắn. Sau đó, hắn nhân cơ hội này để tuyên bố mình là tướng quân của Red Mist. Sau khi đội quân này rơi vào tình trạng hỗn loạn, nó đã được thay thế bởi đội quân Bloodmist (Sương Máu – Huyết Sương).

Sorla Khan:

– Sau Axe, vị trí lãnh đạo của Red Mist rơi vào tay Sorla Khan, một Oglodi hung bạo và vô lý. Những hành động của cô ta đã làm hoang mang những người như Yurnero (Juggernault), anh tin rằng cô phải bị xử lý.

Trận Roseleaf:

– Red Mist đã phát động một cuộc tấn công chống lại Bronze Legion (Quân đoàn Đồng) của Tresdin (Legion Commander) tại Roseleaf, với kết cục không xác định. Mireska (Dark Willow) nói bóng gió rằng Red Mist là phe chiến thắng, mặc dù điều này vẫn chưa chắc chắn.

Redmoon Order (Giáo Hội Trăng Đỏ)

– Redmoon Order là một tổ chức bí ẩn. Nó được dẫn dắt bởi một chủ nhân, người truyền giáo đầu tiên của hội. Lanaya đã từng được đề nghị làm việc truyền giáo này, lúc đầu cô từ chối, nhưng rồi đã chấp nhận khi cô nhìn thấy bộ giáp bí ẩn được mặc bởi các thành viên của nó.

– Giáo hội phải đối mặt với một “kẻ thù cổ đại” không rõ tên với các giác quan cực kỳ nhạy bén, kẻ địch đang ẩn nấp mà chỉ đung đưa 1 sợi tóc thôi thì cũng bị nó phát hiện. Lanaya có lẽ được giáo hội cử đi để thực hiện các vụ ám sát chống lại kẻ thù cổ xưa này, trong thời gian đó cô đã đeo một chiếc kẹp tóc chặt.

Sagesmiths (Các Thánh Thợ Rèn)

– Sagesmiths là một nhóm thợ thủ công từ xứ Vuur. Họ được biết đến với việc tạo ra vũ khí từ những chiếc gạc của loài Murex Elk (Nai Sừng Tấm Ốc Gai) và từ loại đá lửa rực cháy trong lòng của dãy núi lửa Vuurcrag.

Sapphire Archons (Ngọc Bích Nguyên Lão)

– Sapphire Archons là một phe phái trong Dota 2. Pierpont là thành viên duy nhất được biết đến, ông ta từng là thầy của Rylai (Crystal Maiden). Mireska (Dark Willow) muốn tìm Sapphire Archon, có thể là do lòng ham muốn đá quý và kho báu của cô ta thôi thúc.

Serpent Clan (Bộ tộc Mãng Xà)

– Serpent Clan là một hội tu sĩ, có liên quan đến Bear Clan và Dragon Clan. Thành viên đều là các nhà tiên tri hiến tế, những người báo trước tương lai bằng cách quan sát các bộ lòng của con vật hiến tế, đặc biệt là rắn. Thông qua việc bói toán, họ đã nhìn thấy trước sự sụp đổ của các bộ tộc khác, và đã cử ra một người mang đến cho Sylla (LD) những lễ phục thiêng liêng của họ trước khi định mệnh gõ cửa.

Sisters of the Veil (Sa Diện Tỷ Muội – Hội Chị Em Che Mặt)

Thông tin chung:

– Sisters of the Veil, còn được gọi là Veiled Sisters hoặc Veiled Ones là một tổ chức bí mật tiến hành các nghi lễ ám sát. Giống như tên gọi của hội, nếu ko phải toàn bộ thì hầu hết thành viên cũng là nữ giới.

Veiled Oracle (Nhà tiên tri che mặt):

– Trong hội có một Veiled Oracle có uy, người này thường phán ra cái tên của kẻ sẽ phải chết. Veiled Oracle được biết đến là người từng đặt tên cho các thành viên khác của hội, mặc dù hiếm khi. Do đó, các chị em trong hội đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa đặc biệt để đề phòng việc bị gọi tên và bị giết bởi chính hội của mình.

Các Phantom Assassin (Sát thủ bóng ma):

– Veiled Sisters tin rằng ám sát là một phần thiêng liêng của quy luật tự nhiên. Để đạt được điều này, họ dùng phương pháp bói toán để chọn ra những đứa trẻ đem về nuôi dưỡng và đào tạo thành Phantom Assassins. Những đứa trẻ được nuôi dưỡng không có danh tính hay cá tính riêng, chỉ có sự tận tụy đối với Veiled Sisters. Con mồi của họ dường như được xác định một cách ngẫu nhiên, thông qua thiền định và tiên tri, không phân biệt giai cấp tầng lớp. Nạn nhân được coi là vật hiến tế, và cái chết dưới tay của các Phantom Assassin được coi là một vinh dự. Các Phantom Assassin bị cấm nói ra tên của chính họ. Mortred là người duy nhất đã vi phạm quy tắc này.

– Các Phantom Assassin coi mình là một thành viên trong hội. Khi một Phantom Assassin hi sinh thì một người khác sẽ bước lên đảm nhiệm vị trí đó. Tổng số lượng Phantom Assassin thì vẫn là một ẩn số.

Phantom Veil (Mạng che ma mị):

– Các sát thủ đều đeo Phantom Veil trên mặt, nó làm từ lụa. Ngoài ra còn có một số bằng chứng cho thấy Phantom Veil là một khái niệm siêu hình, vì Mortred từng nói rằng ngay cả cái chết cũng không thể “nhìn thấu được Phantom Veil”. Cô cũng tin rằng cái chết của chính mình thể hiện sự thất bại đối với Veil, và những vụ ám sát của cô phụ thuộc vào “các hoạ tiết của Veil”.

Võ thuật:

– Các sát thủ của Veiled Sisters được huấn luyện dùng kiếm và lưỡi hái một cách thuần thục. Các học viên học hỏi và trình diễn kỹ năng của họ ngay trên bãi tập.

– Kỹ năng đầu tiên mà họ học được là thuật phi đao, được sử dụng để vô hiệu hóa hoặc đánh lạc hướng mục tiêu trước khi tấn công. Các sát thủ được dạy cách thiền định, giúp tăng cường khả năng dự đoán các đòn đánh của kẻ địch. Bằng ý chí siêu phàm, các Phantom Assassin có thể tung ra đòn kết liễu thường sẽ đoạt mạng mục tiêu trong một cú đánh duy nhất. Vũ khí của các Phantom Assassin bao gồm những lưỡi kiếm thẳng, lanh lẹ đến những lưỡi kiếm cong và nặng hơn. Trên hết, Veiled Sisters tự hào về vũ khí của họ có thể xuyên thủng bất cứ thứ gì.

Các nhiệm vụ:

– Hội này có giao dịch tại thành phố thương mại Revtel, mặc dù bản chất chính xác của những phi vụ đó là không rõ ràng. Những giao dịch này đã làm dấy lên những tin đồn mà Mireska (DW) đã nghe ngóng được, cô cảnh báo Mortred (Phantom Assassin) rằng các ông trùm của thành phố sẽ tức giận khi họ biết về hành động của hội.

Sunbreeze Family (Gia tộc Sunbreeze)

Thông tin chung:

– Gia tộc Sunbreeze là một gia tộc giàu có của tộc Fae ở thành phố Revtel. Nó được lãnh đạo bởi cha của Mireska (DW), một ông trùm ngành buôn quỷ quyệt và bạo ngược. Gia tộc Sunbreeze nổi tiếng về sự bội tín và lừa lọc. Món gia bảo quý báu của gia tộc là một thánh vật làm bằng gai hoa hồng.

Mireska biệt hiệu Dark Willow:

– Ương ngạnh trước sự quản thúc của cha mình, cô bé Mireska đã nổi loạn bằng cách thiêu cháy gia sản, đánh cắp gia bảo và chạy trốn cùng với người bạn đồng hành bé nhỏ của mình. Kể từ ngày hôm đó, cha cô đã tìm cách bắt cô về bằng mọi cách, kể cả việc thuê thợ săn tiền thưởng để săn lùng cô.

Slithereen Guard (Đội Vệ Binh Slithereen)

Thông tin chung:

– Slithereen Guard là một đơn vị quân sự của tộc Slithereen và Naga, được giao nhiệm vụ bảo vệ hội Deep Ones (Những Kẻ Biển Sâu) và những kho báu chìm dưới biển của họ. Trong số thành viên có Slardar và Naga Siren. Các chỉ huy của họ thường đội mũ sắt được trang trí bằng những chùm lông vũ màu vàng sáng. Các thành viên xuất sắc thì có thể được nhận vào Order of Cyprin (Giáo hội Cyprin) lừng lẫy.

Cấp bậc và đơn vị:

– Trong số họ có những thành viên ưu tú, những người cực kỳ trung thành. Họ luôn tuân theo một lời thề nghiêm khắc, được nhắc lại trước mỗi trận chiến: “Slithereen không thể thất bại”. Danh dự rất được xem trọng. Nếu một trong những người đã tuyên thệ thất bại trong nhiệm vụ của họ, họ sẽ bị trục xuất cho đến khi họ làm tròn nghĩa vụ của mình. Slithice (Naga) là một trong những người như vậy.

– Các thành viên thiện chiến nhất được chỉ định làm Centurion (Đại đội trưởng). Có một tầng lớp ưu tú khác của đội vệ binh có tên là The Flood (Cơn Lũ) được lãnh đạo bởi First Spear (Ngọn Giáo Tiên Phong), đó là vị trí hiện đang được Slardar nắm giữ.

Trận Crey:

– Trong một trận chiến lớn xảy ra tại Crey, giữa đội Slithereen Guard và đội quân tộc Levianths man rợ vốn đang tìm kiếm cống vật cho vị thần Maelrawn của chúng. Slithice đã lãnh đạo lực lượng một trăm vệ binh bảo vệ các kho báu chìm dưới biển, hầu hết họ đã hi sinh trong cuộc chiến. Mặc dù thành công trong việc đẩy lùi bọn Levianths, nhưng có một chén thánh trong kho báu đó đã bị mất tích. Vì sơ suất này, Slithice đã bị tước bỏ cấp bậc, bị lưu đày và buộc phải che hết vây đầu cho đến khi cô tìm lại được chiếc chén thánh bị lấy cắp.

Trận Stonefish Gate (Thạch Ngư Môn):

– Slithice cùng đội Slithereen Guard đã có mặt tại Trận chiến Stonefish Gate, họ được điều tới đó để hỗ trợ Conclave of the Brine (Mật Viện Nước Mặn). Không rõ kẻ địch của họ là ai.

Sylvan Guard (Đại Lâm Vệ Binh)

– Sylvan Guard là một nhóm tuần tra các khu rừng gần vùng đất của tộc Drow. Họ thường mang những cây cung tốt, và di chuyển rất tĩnh lặng. Mỗi cung thủ đều mang những mũi tên được làm riêng cho mình.

– Drow Ranger đôi khi có đi dò thám đội Sylvan Guard, cô hiểu họ nghĩ gì. Cô ngưỡng mộ kỹ năng và thậm chí rất thích thời trang của họ. Thỉnh thoảng, cô mặc áo giáp của họ và giả làm một thành viên của đội Sylvan Guard.

Tahlin Watch (Quân Cấm Vệ Tahlin)

– Tahlin Watch là những người bảo vệ hoàng gia của Vương Triều Tahlin, tập hợp những cá nhân đặc biệt tài năng. Họ đã bị giết khi vương triều bị lật đổ. Riki vẫn còn giữ một bộ áo giáp của Tahlin Watch, vốn anh mượn chúng để mặc ngụy trang nhằm thoát khỏi sự hỗn loạn.

The Continuum

– The Continuum là một phe phái bí ẩn. Mars đã chiến đấu trong các chiến dịch kéo dài hàng thế kỷ chống lại The Continuum. Sheragndar – 1 nhân vật bí ẩn – có thể là thành viên của The Continuum.

The Lost Order (Giáo Phái Bị Biến Mất)

– The Lost Order là một ngôi trường dạy kiếm thuật cổ xưa tồn tại trước thời kỳ hưng thịnh của Isle of Masks (Đảo Mặt Nạ). Tên thật của nó thì không ai rõ. Ngôi trường này lưu giữ trong thư viện những bản ghi chép đồ sộ bằng giấy da về cách luyện kiếm của họ. Cuối cùng, các kiếm sĩ của giáo phái đã tạo ra các kỹ thuật cho phép họ chém xuyên qua tấm lụa thực tại bằng lưỡi kiếm của mình. Lo sợ hệ lụy và hậu của những hành động đó, những trưởng lão trong trường đã đốt tất cả các bản ghi chép trong thư viện của họ, và giết chết tất cả môn đồ trong trường cho đến tận người cuối cùng. Sau đó họ cũng tự sát, để không còn ai biết được kỹ thuật xé nát thực tại này nữa.
– Yurnero biệt hiệu Juggernaut sở hữu một thanh kiếm của ngôi trường này. (Edge of the Lost Order – kiếm immortal)

The Lost Vigil (Những Vigil Thất Lạc)

– The Lost Vigil là một nhóm hiệp sĩ Vigil bị mất tích khi đang đi tuần tra. Trong khi hầu hết đều cho rằng họ bị lạc trên biển thì vẫn có những người khác tin rằng họ đã trôi dạt đến Ashkavor, nơi họ đã được người ta bắt gặp ở dãy núi gần Fellstrath.
– Sven có một bộ giáp và vũ khí liên quan đến nhóm hiệp sĩ này.

The Quorum (Hội Đồng Đại Biểu)

– The Quorum là cơ quan cầm quyền cai quản thành phố của ma thuật Weeping Rose. Họ được nổi tiếng với những món quà và các đặc ân, nhưng luôn kèm theo sự ràng buộc. Lion đã xin The Quorum cho hắn tị nạn trong Weeping Rose, và đã được chấp nhận.

Treants Guard (Mộc Vệ Binh)

– Treants Guard là một đạo quân cây có tri giác được triệu hồi bởi Nature’s Prophet. Các thành viên chỉ toàn là tộc Treants.
– Vấn chưa rõ mối quan hệ của họ với các Treant Protector.

Vigil Knights (Dòng Hiệp Sĩ Vigil)

Thông tin chung:

– Vigil Knights là một dòng của các hiệp sĩ tuân theo một bộ quy tắc ứng xử nghiêm ngặt được quy định trong Vigil Codex (Bộ Luật Vigil). Họ đóng quân ở Vigil Keep (Toà Thành Vigil). Dòng hiệp sĩ này sở hữu thanh Outcast Blade (Thanh Kiếm Ruồng Bỏ) và Sacred Helm (Mũ Sắt Thiêng Liêng), và giữ gìn một Holy Flame (Ngọn lửa Thánh) nào đó. Các Hiệp sĩ Vigil cũng là những thợ rèn vũ khí lão luyện. Biểu tượng của họ có lẽ là được lấy từ một vũ khí mà họ tạo ra tên là Vigil Signet (Khiên immortal)
– Có những chiếc thuyền buồm vượt biển treo quân kỳ của Vigil Knights, một số cũng mang theo vũ khí.

Các chi phái nhỏ:

– Flameguard (Hoả Vệ Binh): Một chi phái nhỏ của các kiếm sĩ chuyên đóng quân trong Inner Colonnade (Rặng Cây Bên Trong) để bảo vệ Holy Flame (Ngọn lửa Thánh).
– Mono Militis: Một chi phái được giao nhiệm vụ săn lùng các thành viên đã rời bỏ những lời giáo huấn của bộ luật Vigil Codex.
– Chiseled Guard (Đội Vệ Binh Chạm Trổ): Một chi phái đã biến mất mà không rõ nguyên nhân. Có thể liên quan hoặc không đến dòng Vigil Knights.

Sven:

– Cha của Sven là một thành viên của dòng, cho đến khi ông bị xử tử vì vi phạm Bộ luật Vigil Codex. Sven sau đó gia nhập Vigil Knights đồng thời che dấu danh tính của mình. Các hiệp sĩ Vigil coi sự tồn tại của những người như Sven là “sự ghê tởm”, có lẽ vì dòng máu lai giữa các chủng tộc của họ, mặc dù điều này là không chắc chắn. Dòng hiệp sĩ thường tổ chức một buổi lễ tuyên thệ cho các môn đồ của mình, trong đó có Sven sẽ tham gia sau mười ba năm học trong dòng hiệp sĩ này. Tuy nhiên, vào ngày hôm đó, Sven đã phá vỡ Sacred Helm của dòng, lấy đi thanh kiếm Outcast Blade và đốt cháy quyển Vigil Codex trong Holy Flame. Chiếc găng tay sắt của Sven mà anh ta dùng để ném Storm Hammer, cũng được lấy từ Vigil Knights. Các Hiệp sĩ Vigil rõ ràng đã bị Sven đồ sát, mặc dù không bị diệt hết hoàn toàn. Cho đến ngày nay, dòng Vigil Knights vẫn tìm cách đoạt lại Outcast Blade từ tay Sven.

Các mối quan hệ:
– Các Hiệp sĩ Vigil đã từng giao chiến hoặc cố gắng khuất phục Mireska (DW) vì lý do nào đó.

Vile Council (Hội Đồng Đê Tiện)

– Vile Council là một hội đồng ở Devarque đã kết án N’aix (Lifestealer) bị tù chung thân.

Warstomp Clan (Bộ Tộc Warstomp)

– Warstomp Clan là bộ tộc nhân mã duy nhất được người ta biết đến tên. Không có nhiều thông tin về họ, ngoại trừ việc họ thiết kế áo giáp của mình với màu xanh ngọc.

Weavers (Thợ Dệt)

– Weavers là những sinh vật giống côn trùng được giao nhiệm vụ bảo dưỡng dải lụa thực tại, giữ cho nó được bền chặt và tránh để nó bị phai màu. Họ cũng bảo vệ nó khỏi những sinh vật khác gặm nhấm hoặc đẻ trứng lên tấm lụa, từ đó ngăn ngừa con non của chúng nuốt chửng toàn bộ vũ trụ. Mỗi Weaver được giao cho một phần của vũ trụ để bảo dưỡng. Các Weaver gọi các đấng sáng tạo là Loom (Khung cửi). Tấm lụa họ dệt được cho là có liên hệ đến vận mệnh.

– Các Weaver có râu ăng ten và cơ quan cảm giác cho phép họ phát hiện những thay đổi trong kết cấu của thực tại. Ăng ten của họ càng dài thì họ càng dễ dàng dệt nên thực tại.
– Weaver nổi tiếng nhất là Skitskurr. Vốn đã chán việc chỉ được bảo dưỡng vũ trụ, Skitskurr muốn tạo ra thực tại mới. Tham vọng của hắn ta sớm thu hút sự chú ý của các vệ binh vũ trụ, những người đã cắt bỏ phần dải lụa của hắn và loại bỏ hắn khỏi hàng ngũ. Bị tách khỏi các weaver khác, Skitskuur giờ đây đang tìm cách dệt nên một thực tại mới của chính mình.

Western Wails (Tiếng Khóc Tây Phương)

– Western Wails là một hiệp hội của những sát thủ coi trọng cả nhan sắc lẫn tài năng. Họ có các thành viên nữ cài hoa trang điểm trên tóc. Lanaya (TA) có thể đã từng là một thành viên của hội.

Nguồn: Người kể chuyện Dota2

Bình luận
Loading...

https://chudaihd.com/ mom has passionate sex with her grown son.
www.alledepornos.com
sex videos